Joseph E.
Stiglitz<br />
Đỗ Kim Thêm dịch
Quyền
lực mềm: Cách đáp ứng hay nhất của Mỹ đối với Trung Quốc là đưa các vấn đề
trong nước đi vào nề nếp.
Trung Quốc vừa
qua mặt Mỹ trong vai trò như là một nền kinh tế lớn nhất thế giới mà không phô
trương ồn ào - dù trên thực tế, chúng ta cần có một số nghi ngờ về vị thế mới
này của Trung Quốc -. Đây là một lời kêu gọi cảnh tỉnh, và nên có một tiếng kêu
như vậy - nhưng không phải là loại kêu gọi mà hầu hết người Mỹ có thể hình
dung.
Khi lịch sử năm
2014 được viết ra, nó sẽ ghi nhận một sự kiện quan trọng mà ít người quan
tâm:2014 là năm cuối cùng mà Mỹ có thể tuyên bố mình là cường quốc kinh tế lớn
nhất thế giới. Bước vào năm 2015 Trung Quốc chiếm vị trí thượng đỉnh, và có thể
sẽ vẫn còn giữ vị thế này trong một thời gian dài, dù không chắc là vĩnh cữu.
Khi đạt được như vậy, Trung Quốc trở về một tư thế mà họ đã giữ được trong suốt
hầu hết lịch sử của loài người.
So sánh Tổng Sản
Lượng Nội Địa của các nền kinh tế khác nhau là một việc rất khó. Các Ủy ban
Chuyên trách đi đến những ước tính, mà họ dựa trên những thẩm định khả dĩ tốt
nhất, đó là những gì mà họ gọi là “sức mua tương đương", chỉ số này cho
phép so sánh về thu nhập ở các nước khác nhau. Nhưng so sánh này không lấy ra
được các số liệu coi như là chính xác, nhưng chúng sẽ cung cấp một cơ sở tốt để
đánh giá kích thước tương đối của các nền kinh tế khác nhau. Đầu năm 2014, một
cơ quan tiến hành những đánh giá quốc tế này đã đưa ra với những số liệu mới,
cơ quan này có tên là Chương trình So sánh Quốc tế của Ngân hàng Thế giới. (Nhiệm
vụ này phức tạp đến như vậy nên trong vòng 20 năm chỉ có ba bản báo cáo). Các
đánh giá mới nhất được phổ biến vào mùa xuân vừa qua đã gây tranh cãi nhiều
hơn, và theo một số cách khác nhau, là quan trọng hơn, khi so với những báo cáo
của các năm trước. Rõ ràng là các đánh giá này gây tranh cãi nhiều hơn vì nó
quan trọng hơn: những số liệu mới cho thấy Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế
lớn nhất thế giới, nó đến sớm hơn so với bất cứ ai đã mong đợi - đó là cách đúng
đắn mà người ta làm như vậy trước khi năm 2014 kết thúc.
Nguồn gốc của sự
tranh cãi sẽ gây ngạc nhiên cho một vài người Mỹ, và nó nói nhiều về sự dị biệt
giữa Trung Quốc và Mỹ - và về sự nguy hiểm khi dự phóng để theo dõi người Hoa
trong một số thái độ của người Mỹ. Người Mỹ rất muốn mình thành số 1, người Mỹ
chúng ta có niềm vui khi được ở vị thế này. Ngược lại, Trung Quốc không quá háo
hức. Theo một số báo cáo, các đại biểu Trung Quốc thậm chí còn đe dọa không
tham gia trong các cuộc thảo luận về chuyên môn. Có một điều mà Trung Quốc
không muốn phải trả một giá để đổi lấy vị thế số một khi đem cái đầu của mình
treo trên bờ công sự phòng thủ. Vấn đề có nghĩa là Trung Quốc chi trả nhiều hơn
để hỗ trợ các cơ quan quốc tế như Liên Hiệp Quốc. Nó có thể mang lại áp lực để
họ nhận ra là họ có một vai trò lãnh đạo cho các vấn đề như biến đổi khí hậu.
Điều nay dễ làm cho một người Hoa bình thường tự hỏi ngay là liệu có nên đem tiền
của đất nước để chi nhiều hơn cho các vấn đề này không. (Trong thực tế, các tin
tức về sự thay đổi vị thế của Trung Quốc không được biết đến ở trong nước.) Có
một mối quan tâm hơn và lại là một quan tâm lớn lao: Trung Quốc hiểu rõ mối bận
tâm của Mỹ với việc Mỹ là số 1 - và Trung Quốc cực kỳ lo ngại về việc Mỹ phản ứng
ra sao khi Mỹ không còn là số 1 nữa.
Tất nhiên là có
nhiều cách, - ta hãy lấy ví dụ như cách tính theo điều kiện của xuất khẩu và tiết
kiệm theo hộ gia đình –Trung Quốc đã vượt qua Mỹ từ lâu. Với tiết kiệm và đầu
tư chiếm dụng gần 50% của TSLQN, Trung Quốc lo lắng về việc mình tiết kiệm quá
mức, đó là vấn đề mà Mỹ ít quan tâm. Trong các lĩnh vực khác, chẳng hạn như
công nghệ chế biến, Trung Quốc đã vượt Mỹ chỉ trong vòng nhiều năm qua. Trung
Quốc vẫn theo sau Mỹ về số lượng bằng sáng chế được giải thưởng, nhưng họ đang
thu hẹp khoảng cách.
Các lĩnh vực mà
Mỹ vẫn còn có thể cạnh tranh được với Trung Quốc không phải lúc nào cũng là những
lĩnh vực mà chúng ta muốn tạo sự quan tâm nhất. Mức độ bất bình đẳng giữa hai
quốc gia là có thể so sánh được. (Tình trạng bất công của Mỹ là cao nhất trong
thế giới phát triển.) Trung Quốc vượt hơn Mỹ về số lượng người bị xử tử hình mỗi
năm, nhưng Mỹ vượt hơn khi so về tỷ lệ dân số trong tù (nhiều hơn 700 người
trong mỗi 100.000 người). Trung Quốc đã vượt Mỹ vào năm 2007 như là nước gây ô
nhiễm lớn nhất thế giới, nếu tính theo khối lượng chung, mặc dù trên cơ sở bình
quân đầu người thì Mỹ tiếp tục đứng đầu. Mỹ vẫn là cường quốc quân sự lớn nhất,
chi tiêu nhiều hơn cho các lực lượng vũ trang khi so với số chi của 10 quốc gia
đứng đầu đem cộng lại (không có nghĩa là chúng ta đã luôn luôn sử dụng sức mạnh
quân sự một cách khôn ngoan). Nhưng sức mạnh nền tảng của Mỹ thường ít dựa vào
sức mạnh của quân sự hơn là dựa trên "quyền lực mềm", đáng kể đặc biệt
nhất là ảnh hưởng kinh tế của mình. Đó là một điểm chính cần lưu tâm.
Rõ ràng là có những
sự thay đổi về cách kiến tạo trong sức mạnh kinh tế toàn cầu đã xãy ra trước
đây, và kết quả mà chúng ta biết là có điều gì đó xãy ra khi có sự thay đổi.
Hai trăm năm trước đây, sau cuộc chiến Napoleon, nước Anh nổi lên như là một cường
quốc thống trị thế giới. Đế chế Anh mở rộng một phần tư địa cầu. Tiền tệ Anh là
đồng Bảng đã trở thành tiền tệ dự trữ trong toàn cầu, - có giá trị vững chắc
như vàng. Nước Anh, đôi khi hợp tác nhịp nhàng với các đồng minh của mình để áp
đặt các quy luật riêng về thương mại. Luật có thể cho phép phân biệt đối xử để
chống lại việc nhập khẩu hàng dệt của Ấn Độ và buộc Ấn Độ để mua quần áo của
Anh. Anh và các đồng minh cũng có thể kiên quyết buộc Trung Quốc mở cửa thị trường
cho việc mua bán nha phiến, và khi Trung Quốc biết hậu quả tàn phá của nó, cố gắng
đóng cửa biên giới, đồng minh hai lần gây chiến để duy trì mức lưu lượng tự do
của sản phẩm này.
Sự thống trị của
Anh kéo dài một trăm năm và tiếp tục ngay cả sau khi Mỹ đã vượt qua Anh về kinh
tế, trong những năm 1870. Luôn luôn có một mức độ chậm trễ (việc này sẽ có với
Mỹ và Trung Quốc). Biến cố chuyển tiếp là thế chiến lần thứ nhất, khi Anh thắng
Đức với chi viện của Mỹ. Sau chiến tranh, Mỹ đã miễn cưỡng chấp nhận dùng tiềm
năng của mình cho các trách nhiệm mới, trong khi Anh đã tự nguyện từ bỏ vai trò
của mình. Woodrow Wilson đã làm những gì có thể làm được để xây dựng một thế giới
hậu chiến mà một cuộc xung đột toàn cầu khác ít điều kiện xãy ra hơn, nhưng
theo đuổi chủ thuyết cô lập trong nước có nghĩa là Mỹ không bao giờ tham gia
vào Hội Quốc Liên. Trong lĩnh vực kinh tế, Mỹ kiên quyết đi theo phương sách của
mình - thông qua quan thuế biểu của Smoot-Hawley và kết thúc một kỷ nguyên mà
chúng ta đã chứng kiến về một sự bùng nổ trên toàn thế giới trong lĩnh vực
thương mại. Anh duy trì đế chế của mình, nhưng dần dần đồng Bảng Anh nhường chỗ
cho đồng Đô la: cuối cùng, các thực tế kinh tế khống chế. Nhiều công ty Mỹ đã
trở thành doanh nghiệp toàn cầu, và văn hóa Mỹ đã lên cao thấy rõ.
Thế chiến thứ
hai là một biến cố kế tiếp mang tính cách định hình. Bị tàn phá bởi cuộc xung đột,
Anh mất đi hầu như tất cả các thuộc địa. Đó là thời điểm mà Mỹ đảm nhận trọng
trách lãnh đạo. Mỹ là trung tâm trong việc tạo ra cơ quan Liên Hiệp Quốc và quy
định khuôn mẩu cho các thỏa ước Bretton Woods, hệ thống này sẽ làm cơ sở cho trật
tự mới về chính trị và kinh tế. Dù vậy, thành tích là không đều đặn. Thay vì tạo
ra một loại tiền tệ dự trữ cho toàn cầu mà nó sẽ đóng góp nhiều hơn cho sự ổn định
kinh tế thế giới, - như John Maynard Keynes đã lập luận một cách đúng đắn - Mỹ
đặt lợi ích ngắn hạn của mình lên hàng đầu, suy nghĩ một cách ngu xuẩn là Mỹ sẽ
thắng thế với đồng Đô la khi nó trở thành khối tiền dự trữ của thế giới. Vị thế
của đồng Đô la là một con dao hai lưỡi: nó cho phép Mỹ vay tiền với lãi suất thấp,
trong khi những nước khác có nhu cầu để đưa đồng Đô la vào khối lượng dự trữ của
mình, nhưng đồng thời làm cho giá trị của đồng đô la tăng lên, (cao hơn mức mà
người ta có thể đạt được bằng cách nào khác) tạo ra hoặc làm trầm trọng tình trạng
thâm hụt mậu dịch và suy yếu nền kinh tế.
45 năm sau thế
chiến thứ hai, chính trị toàn cầu bị hai siêu cường Mỹ và Liên Xô chế ngự, cả
hai tiêu biểu cho hai quan điểm khác nhau về cách thức tổ chức và chi phối nền
kinh tế và xã hội và về tầm quan trọng tương đối của các quyền chính trị và
kinh tế. Cuối cùng, hệ thống Xô Viết đã thất bại với nhiều lý do, vì tham nhũng
nội bộ, các tiến trình dân chủ không được ai kiểm soát, và nhiều thứ khác. Sức
mạnh quân sự của Liên Xô đáng ghê sợ; về quyền lực mềm của họ thì ngày càng là
một trò cười. Hiện tại trên thế giới đã bị chế ngự bởi một siêu cường duy nhất,
một siêu cường tiếp tục đầu tư mạnh vào lĩnh vực quân sự của mình. Điều đó nói
rằng Mỹ là một siêu cường không chỉ về quân sự mà còn về kinh tế.
Sau đó Mỹ đã phạm
phải hai sai lầm nghiêm trọng. Thứ nhất, từ chiến thắng của mình mà Mỹ suy ra rằng
đó là một thắng lợi cho tất cả mọi thứ mà Mỹ đang làm tiêu biểu. Nhưng ở nhiều
nước thế giới thứ ba, mối quan tâm về nghèo đói - và các quyền kinh tế mà chính
giới cánh tả đã ủng hộ từ lâu - vẫn là tối quan trọng. Sai lầm thứ hai là sử dụng
sự khống chế đơn phương trong một thời gian ngắn, đó là thời kỳ giữa sự sụp đổ
của Bức tường Berlin và sự sụp đổ của Lehman Brothers, để theo đuổi lợi ích
kinh tế hạn hẹp của mình, - hay nói chính xác hơn, các lợi ích kinh tế của các
công ty đa quốc, bao gồm các ngân hàng lớn, chứ không phải là để tạo ra một trật
tự thế giới mới ổn định. Chế độ mậu dịch mà Mỹ đã thúc đẩy trong năm 1994 tạo
ra Tổ chức Thương mại Thế giới, đã bất quân bình đến độ mà mà năm năm sau đó,
khi một hiệp định thương mại khác sắp xảy ra, triển vọng này dẫn đến bạo loạn ở
Seattle. Trong khi đàm phán về mậu dịch tự do và công bình, Mỹ lại kiên quyết
(lấy một ví dụ) trợ cấp cho nông dân giàu có của mình, việc này tạo cho Mỹ là
có tinh thần đạo đức giả và riêng mình hưởng lợi.
Và Washington
không bao giờ hoàn toàn nắm bắt những hậu quả cuả một vài trong số các hành động
thiển cận của mình – khi Washington có dự định mở rộng và cũng cố sự thống trị,
nhưng trong thực tế, về lâu dài làm cho vị thế suy giảm. Trong cuộc khủng hoảng
tại Đông Á vào những năm 1990, Bộ Tài chính Mỹ đã làm việc tận lực để làm suy yếu
cái gọi là sáng kiến Miyazawa, một đề nghị hào phóng của Nhật Bản với 100 tỷ Đô
la để giúp các nền kinh tế nhảy vọt đã chìm vào suy trầm và suy thoái. Các
chính sách của Mỹ đã thúc đẩy các nước này phải chịu thắt lưng buộc bụng và trả
lãi suất cao, không có bảo chứng sơ cứu cho các ngân hàng khi gặp nguy khốn, tất
cả làm tương phản với những gì mà các quan chức của Bộ Tài Chính ủng hộ cho Mỹ
sau cuộc khủng hoảng năm 2008. Thậm chí ngày nay, 15 năm sau cuộc khủng hoảng tại
Đông Á, chỉ cần đề cập đến vai trò của Mỹ là có thể tạo ra ngay những cáo giác
giận giữ và phê phán về đạo đức giả của Mỹ ở các thủ đô châu Á .
Hiện nay Trung
Quốc là cường quốc kinh tế số 1 của thế giới. Tại sao chúng ta phải quan tâm? Ở
một mức độ, thực sự ra chúng ta không nên quan tâm. Các nền kinh tế thế giới
không phải là một trò chơi một là thắng và hai là thua, nơi mà sự tăng trưởng của
Trung Quốc nhất thiết phải dẫn đến các thua lỗ của chúng ta. Trong thực tế,
tăng trưởng của Trung Quốc bổ sung cho tăng trưởng của chúng ta. Nếu Trung Quốc
phát triển nhanh hơn, Trung Quốc sẽ mua nhiều hàng hóa của Mỹ, và chúng ta sẽ
thịnh vượng. Để đoan chắc, người ta luôn có một chút ít cường điệu trong các lời
tuyên bố như vậy, - chỉ cần hỏi công nhân bị mất việc sản xuất chế biến khi
chuyển sang Trung Quốc. Nhưng thực tế đã có nhiều liên quan đến các chính sách
kinh tế quốc nội của chúng ta cũng như khi nó liên quan đến việc trổi dậy một số
nước khác
Trên một mức độ
khác, sự nổi lên của Trung Quốc vào vị trí hàng đầu là vấn đề rất lớn, và chúng
ta cần phải nhận thức các hệ lụy.
Thứ nhất, như đã
nói, sức mạnh thực sự của nước Mỹ nằm ở quyền lực mềm - một khuôn mẫu để cung cấp
cho người khác và gây ảnh hưởng về các ý tưởng của mình, bao gồm cả những ý tưởng
về sinh hoạt kinh tế và chính trị. Sự trổi dậy của Trung Quốc trong vị trí thứ
1 mang đến sự nổi bật mới cho một mô hình chính trị và kinh tế của đất nước -
và cho các hình thức riêng mình về quyền lực mềm. Sự nổi lên của Trung Quốc
cũng là một đèn rọi chói mắt tỏa sáng vào mô hình của Mỹ. Đó là mô hình đã
không cung ứng được cho phần lớn dân số của mình. Các gia đình Mỹ điển hình sống
tệ hơn so với một phần tư thế kỷ trước, sau khi được điều chỉnh theo giá lạm
phát; tỷ lệ người nghèo đã tăng lên. Trung Quốc cũng vậy, tình trạng bất bình đẳng
được đánh dấu là ở mức độ cao, nhưng đối với đa số người dân thì nền kinh tế
chung có làm tốt hơn. Trung Quốc đã đem khoảng 500 triệu người thoát khỏi cảnh
đói nghèo trong cùng khoảng thời gian đó người ta thấy tầng lớp trung lưu của Mỹ
bước vào giai đoạn trì trệ. Một mô hình kinh tế không phục vụ đa số cho người
dân của mình thì sẽ không đem lại một vai trò như khuôn mẫu để cho người khác
noi theo. Mỹ nên thấy sự nổi lên của Trung Quốc như một lời kêu gọi cảnh tỉnh
cho mình để làm sao đưa các vấn đề trong nước đi vào nề nếp.
Thứ hai, nếu
chúng ta suy nghĩ về sự nổi lên của Trung Quốc và sau đó có những hành động dựa
trên ý tưởng rằng các nền kinh tế trên thế giới thực sự là một trò chơi được ăn
cả và ngã về không - và do đó, chúng ta cần phải tăng phần lợi của chúng ta và
làm giảm phần của Trung Quốc – thậm chí chúng ta sẽ làm hỏng dần phần quyền lực
mềm của chúng ta. Đúng ra, điều này sẽ là loại kêu gọi thức tỉnh sai lạc. Nếu
chúng ta nhìn thấy sự thắng thế của Trung Quốc là phần thua lỗ của chúng ta,
thì chúng ta sẽ phấn đấu để "ngăn chặn", thực hiện các biện pháp để hạn
chế ảnh hưởng của Trung Quốc. Cuối cùng, những hành động này xem ra là vô ích,
nhưng dù sao cũng sẽ làm suy yếu lòng tin và vị thế lãnh đạo của Mỹ. Chính sách
đối ngoại của Mỹ đã nhiều lần rơi vào cái bẫy này. Chúng ta hãy xem cái gọi là
mối quan hệ Đối tác Xuyên Thái Bình Dương - một thỏa ước tự do mậu dịch giữa Mỹ,
Nhật Bản và một số nước châu Á khác -, trong đó loại trừ Trung Quốc. Nhiều người
xem đó như là một cách để thắt chặt mối liên hệ giữa Mỹ và các quốc gia châu Á,
với cái giá là không liên kết với Trung Quốc. Có một chuỗi cung ứng châu Á rộng
lớn và năng động, với hàng hóa di chuyển xung quanh khu vực trong giai đoạn
khác nhau trong sản xuất; Đối tác Xuyên Thái Bình Dương trông giống như một nỗ
lực để cắt Trung Quốc ra khỏi dây chuyền cung ứng này.
Một ví dụ khác:
với một cách ngờ vực Mỹ nhìn những nỗ lực còn nhen nhúm của Trung Quốc khi đảm
nhận trách nhiệm toàn cầu trong một số lĩnh vực. Trung Quốc muốn đảm nhận một
vai trò lớn hơn trong các tổ chức quốc tế hiện nay, nhưng thực ra, Quốc hội nói
là các câu lạc bộ cũ không muốn có các thành viên mới hoạt động: họ có thể tiếp
tục chiếm một vị thế thứ yếu, nhưng họ không thể có quyền biểu quyết tương xứng
với vai trò trong nền kinh tế toàn cầu của họ. Khi quốc gia khác trong khối G -
20 đồng ý rằng đó là bây giờ chính là thời điểm mà các lãnh đạo của các tổ chức
kinh tế quốc tế đ ược xác định dựa trên cơ sở là thành tích, không dựa trên
tiêu chuẩn quốc tịch, Mỹ khẳng định rằng trật tự cũ là đủ tốt, - lấy một thí dụ
là Ngân hàng Thế giới phải được tiếp tục lãnh đạo do người Mỹ.
Lại thêm một ví
dụ khác: được hỗ trợ bởi một Ủy ban Quốc tế các Chuyên gia do Chủ tịch Liên Hiệp
Quốc bổ nhiệm, mà tôi là người đứng chủ trì, - Trung Quốc cùng với Pháp và các
nước khác đề nghị chúng tôi đúc kết công trình mà Keynes đã khởi đầu tại
Bretton Woods, bằng cách tạo ra một tiền tệ dự trữ quốc tế, Mỹ ngăn chặn các nỗ
lực này.
Và ví dụ cuối
cùng: Mỹ đã tìm cách ngăn cản những nỗ lực của Trung Quốc trong các kênh hỗ trợ
nhiều hơn cho các nước đang phát triển thông qua các tổ chức đa phương mới được
tạo ra, trong đó Trung Quốc sẽ có một vai trò có lẽ chiếm ưu thế hơn. Nhu cầu
hàng nghìn tỷ đô la cho đầu tư về cơ sở hạ tầng đã được công nhận - và trong điều
kiện là các đầu tư vượt quá xa khả năng mà Ngân hàng Thế giới và các tổ chức đa
phương hiện nay. Điều cần thiết không chỉ là một chế độ quản trị toàn diện hơn
tại Ngân hàng Thế giới, nhưng cũng còn cần có nhiều vốn tư bản hơn. Về hai vấn
đề này, Quốc hội Mỹ đã phủ quyết. Trong khi đó, Trung Quốc đang cố gắng để tạo
ra một Qũy Xây dựng Cơ sở Hạ tầng cho châu Á, làm việc với một số lớn của các
nước khác trong khu vực. Mỹ đang xoắn tay tìm cách để cho những nước này sẽ
không tham gia.
Mỹ đang phải đối
phó với những thách thức đích thực về chính sách đối ngoại mà xem ra là khó giải
quyết: nhóm Hồi giáo có vũ trang; xung đột của Palestine, mà bây giờ đã keó dài
bảy thập niên; một nước Nga hung hãn, kiên quyết theo sức mạnh, ít nhất là đối
với các lân quốc của Nga; mối đe dọa liên tục của việc phổ biến vũ khí hạt
nhân. Chúng ta sẽ cần sự hợp tác của Trung Quốc để giải quyết nhiều vấn đề, nếu
không phải tất cả.
Trong khi Trung
Quốc trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, chúng ta nên dùng thời điểm này để
„chuyển trục" chính sách ngoại giao của chúng ta thoát ra khỏi sách lược
ngăn chặn. Các lợi ích kinh tế của Trung Quốc và Mỹ đang thắt chặt nhau một
cách phức tạp. Cả hai đều có quan tâm chung khi nhìn về một trật tự chính trị
và kinh tế toàn cầu ổn định và hoạt động tốt. Với ký ức lịch sử và nhận thức riêng
về phẩm giá, Trung Quốc sẽ không thể chấp nhận hệ thống toàn cầu chỉ đơn giản
là những quy tắc đã được phương Tây lập ra, đem lợi cho người phương Tây và lợi
ích cho doanh nghiệp phương Tây và phản ánh triễn vọng của phương Tây. Chúng ta
sẽ phải hợp tác, dù muốn hay không, - và chúng ta nên muốn như vậy. Trong khi
đó, điều quan trọng nhất là nước Mỹ có thể làm để duy trì giá trị của quyền lực
mềm là nhằm giải quyết các lỗi hệ thống của mình – các phương cách thực hành về
kinh tế và chính trị đang bị băng hoại, đặt vấn đề một cách sai trái và thiên lệch
nhắm về những người giàu có và thế lực.
Một trật tự
chính trị và kinh tế toàn cầu mới đang thành hình, đó là kết quả của những thực
tế kinh tế mới. Chúng ta không thể thay đổi những thực tế kinh tế này. Nhưng nếu
chúng ta đối ứng nó một cách sai lầm, chúng ta có nguy cơ bị phản ứng mãnh liệt,
mà sẽ dẫn đến hậu quả hoặc là một hệ thống toàn cầu sẽ bị rối loạn chức năng hoặc
là một trật tự toàn cầu mà không phải quá đặc biệt như những gì chúng ta đã
mong đợi.
Nguồn: https://www.danluan.org/tin-tuc/20141218/joseph-e-stiglitz-the-ky-cua-trung-quoc