Lưu Hiểu Ba
Biên dịch & Hiệu đính: Lý Song Anh
Chúng ta mới có
hơn hai mươi năm cải cách, nhưng do sự chiếm đoạt ích kỷ giành quyền lực chính
trị của ĐCS và sự rải rác của các lực lượng dân sự, về ngắn hạn tôi không thấy
có lực lượng chính trị nào có khả năng thay đổi chế độ, hay bất cứ lực lượng có
tư tưởng tự do nào nổi lên từ giới cầm quyền chính thức, một kiểu Gorbachev hoặc Tưởng Kinh Quốc, và cũng không thấy xã hội dân sự có cách nào
xây dựng được sức mạnh chính trị đủ để làm đối trọng với chính quyền chính thức.
Và như vậy, công cuộc chuyển đổi thành một xã hội hiện đại, tự do của Trung Quốc
sẽ phải diễn ra từ từ với nhiều ghập ghềnh trước mặt. Thời gian dài ngắn ra sao
có lẽ sẽ vượt xa tất cả những dự đoán bảo thủ nhất.
Đồng thời, xét về
sự đối lập với sức mạnh của chế độ ĐCS thì xã hội dân sự vẫn còn yếu ớt, lòng
dũng cảm của nhân dân chưa đủ và tri thức dân sự chưa trưởng thành; xã hội dân
sự vẫn ở giai đoạn phát triển ban đầu, và bởi vậy trong một thời gian ngắn không
có khả năng phát triển thành một lực lượng chính trị phù hợp với nhiệm vụ thay
thế chế độ Cộng sản. Trong tình hình đó, thay đổi trong hệ thống chính trị của
Trung Quốc và chế độ hiện thời của nó – với bất kỳ hình thức kế hoạch, chương
trình hay hành động tìm kiếm thành công lập tức nào – vẫn chỉ là xây lâu đài
trên cát.
Tuy vậy, điều ấy
không có nghĩa là không hề có hy vọng gì cho một Trung Quốc tự do trong tương
lai. Bầu trời chính trị Trung Quốc thời hậu Mao Trạch Đông không còn nằm trong
tay duy nhất một người cầm quyền toàn trị; thực tế, nó đang nhuốm hai màu sắc:
tối và sáng. Tương tự như vậy, mối quan hệ giữa quan chức và người dân không
còn theo kiểu không ai dám lên tiếng gì ngoài việc hô vang “Hoàng đế Vạn tuế!”.
Sự cứng nhắc về chính trị của chính quyền và thức tỉnh của người dân về các quyền
của mình, cùng với đàn áp chính thức và phản kháng dân sự tồn tại song trùng
cùng lúc. Hệ thống vẫn mang tính toàn trị như trước, nhưng các phong trào bảo vệ
quyền dân sự tiếp tục nổi lên; nỗi lo sợ bị thẩm tra vẫn còn đó nhưng không còn
tạo ra kiểu uy hiếp “giết một dọa mười”; “nhận thức kẻ thù” của chế độ không
thay đổi nhưng “các cá nhân nhạy cảm về mặt chính trị” không còn là “bệnh dịch”
ghê gớm bị mọi người xa lánh nữa.
Ở thời Mao, để
xác lập sự kiểm soát chuyên chế cá nhân, phải cùng lúc đáp ứng được bốn điều kiện
chính:
Quốc hữu
hóa toàn diện, không còn sự tự chủ kinh tế cá nhân theo bất cứ hình thức
nào, khiến chế độ trở thành người chăm lo đầy quyền lực cho đồng bào, và khiến
họ trở nên phụ thuộc về kinh tế vào chế độ từ khi sinh ra tới lúc chết;
Tổ
chức xâm nhập khắp nơi, khiến cho tự do cá nhân hoàn toàn
biến mất, khiến cho tổ chức trở thành người xác nhận tình trạng pháp lý duy nhất
cho người dân, những người không thể nào xoay sở được nếu rời bỏ tổ chức và khiến
họ phụ thuộc vào chế độ đến mức nếu không có mái che của tổ chức thì họ sẽ
không được xã hội thừa nhận;
‘Chính
thể chuyên chế cứng nhắc của bộ máy độc tài bạo lực áp đặt
lên toàn bộ cơ thể xã hội; một không khí độc tài tạo ra bởi sự cai trị của một
người và tư duy “kẻ thù”– nơi mọi công dân bị biến thành người lính; kiểm soát
len lỏi vào khắp mọi ngóc ngách đến mức mọi đôi mắt trở thành thiết bị giám sát
và mọi người bị giám sát bởi chính cơ quan, cộng đồng [ủy ban], hàng xóm và thậm
chí là bạn bè và người thân. Sự áp đặt bạo ngược về tinh thần lên cả quốc gia tạo
ra từ ý thức hệ về sức mạnh gắn kết và sức mạnh huy động mạnh mẽ, và từ các
phong trào quần chúng quy mô lớn, nơi sự tôn sùng cá nhân cực đoan và quyền lực
lãnh đạo tạo ra một kiểu kiểm soát tinh thần bằng cách một bộ óc quyết định suy
nghĩ của tất cả mọi người, và nơi “những người chống đối” bị cố tình dựng lên một
cách nhân tạo không những bị đàn áp về kinh tế, chính trị và vị thế xã hội mà
còn phải gánh chịu sự sỉ nhục về tính cách, phẩm giá và tinh thần - cách thức
này được gọi là “phê bình cho tới khi chúng đầu hàng và bốc mùi nồng nặc,” mà
trên thực tế, đây chính là bạo ngược kép cả về thể xác và tinh thần ở mức độ
khiến đại bộ phận nạn nhân phải đầu hàng sự bạo ngược tinh thần này và rơi vào
tình thế bị sỉ nhục công khai.
Tuy thế, trong
thời hậu-Mao, không còn tồn tại một xã hội hoàn toàn dựa trên sự cai trị của
chính quyền. Sự chuyển dịch lớn lao theo hướng đa nguyên trong xã hội đã đang
diễn ra, và chính quyền cai trị không còn có thể kiểm soát hoàn toàn tất cả xã
hội. Sự tăng trưởng liên tục của nguồn vốn tư nhân đang dần làm suy giảm nền tảng
kinh tế của chế độ, hệ thống giá trị ngày càng tan rã đang thách thức ý thức hệ,
sự bảo hộ quyền dân sự từng bước mở rộng đang tạo ra thách thức ngày một nhiều
đối với thẩm quyền tùy tiện của quan chức chính phủ, và tinh thần dũng cảm đang
tăng lên vững vàng khiến cho hiệu quả khủng bố chính trị ngày một héo tàn.
Đặc biệt kể từ
Ngày Bốn Tháng Sáu (1989), ba trong số bốn trụ cột cần có để thiết lập quyền độc
tài cá nhân đã trở nên rệu rã và thậm chí sụp đổ. Sự phụ thuộc kinh tế của cá
nhân [vào chế độ] dần được thay thế bằng sự độc lập cá nhân, và việc tự nỗ lực
kiếm sống đã khiến các cá nhân có được cơ sở vật chất để đưa ra các quyết định
tự chủ, đồng thời khiến xã hội có nhiều mối quan tâm hơn. Sự phụ thuộc cá nhân
vào các tổ chức dần được thay thế bằng chút tự do cá nhân: người Trung Quốc
không còn sống trong các tổ chức vì không còn lựa chọn nào khác; thời điểm họ
không xoay sở được nếu thiếu tổ chức đã qua và không bao giờ lặp lại nữa. Xã hội
Trung Quốc dần dần chuyển động theo hướng tự do đi lại, dịch chuyển và lựa chọn
nghề nghiệp.
Trong lĩnh vực ý
thức hệ, sự thức tỉnh nhận thức cá nhân và nhận thức về quyền đã dẫn tới sự sụp
đổ của một ý thức hệ chính thức (và) thống nhất, và sự đa dạng hóa trong hệ thống
giá trị đang buộc chính phủ phải tìm kiếm lời biện hộ cho sự điều chỉnh thụ động
trong chính ý thức hệ của mình. Một hệ thống giá trị công dân độc lập khỏi hệ
thống giá trị quan liêu đang dần thành hình, và mặc dù việc truyền bá bằng dối
trá và kiểm soát ngôn luận vẫn còn, quyền lực bao trùm [của chính phủ] đã suy
giảm đáng kể. Đặc biệt, cuộc cách mạng thông tin do Internet mang lại đang nhân
rộng và đa dạng hóa các kênh tiếp cận thông tin và đàm luận công dân, khiến cho
các phương tiện kiểm soát của chính quyền nhằm ngăn chặn thông tin và cấm đoán
thảo luận chính trị gặp thất bại sâu sắc.
Trong bốn trụ cột
cai trị chuyên chế, chỉ còn có tập trung hóa chính trị và sự đàn áp thẳng tay của
nó. Tuy vậy, bởi vì mẫu hình xã hội mà theo đó chính nghĩa và công lý thuộc về
xã hội dân sự còn quyền lực nằm trong tay chính quyền đang dần dần hình thành
nên nền chuyên chế hai lớp của thời đại Mao – hành hạ về thể chất và kìm kẹp về
tinh thần – không còn nữa, và tính hiệu quả của khủng bố chính trị đã suy giảm
đáng kể. Còn với sự hành hạ của chính phủ đối với các nạn nhân thì nó cũng
không còn tác dụng hai lớp gồm sử dụng nhà tù để tước đi tự do cá nhân và sử dụng
chỉ trích hàng loạt để bôi xấu nhân phẩm và liêm chính của họ. Ngược đãi về
chính trị có thể khiến các nạn nhân chịu tổn thất kinh tế, có thể tước đi quyền
tự do cá nhân của họ, nhưng nó không thể tổn hại đến thanh danh xã hội của họ
và càng không thể đẩy họ rơi vào sự cô lập xã hội; và bởi vậy, nó không thể hủy
hoại tính liêm chính, nhân phẩm hay tinh thần của họ. Ngược lại, nó dần biến
thành phương tiện thúc đẩy vị thế đạo đức của các nạn nhân, trao cho họ vinh dự
là “lương tâm công dân” hay “anh hùng sự thật” còn đám côn đồ do chính phủ thuê
mướn lại trở thành công cụ “làm việc dơ bẩn”. Phần lớn những người bị bạo ngược
không những không van xin sự tha thứ của chính phủ bằng việc tự phê bất tận hay
chấp nhận bị sỉ nhục công khai mà ngược lại, hầu hết đều có thể khơi dậy sự tôn
kính dành cho tâm huyết với công lý của họ khi họ tự bào chữa trước áp lực to lớn
của tổ chức, đặt tổ chức và tòa án Đảng Cộng sản vào vị trí bị cáo đạo đức.
Trong khi đó, tiếp
theo sự sụp đổ của Liên Xô và khối Đông Âu chuyên chế - cộng sản, xu hướng tự
do hóa và dân chủ hóa trên toàn cầu ngày một lớn mạnh. Áp lực từ ngoại giao
nhân quyền của các quốc gia chủ chốt (mainstream nations) và từ các tổ chức
nhân quyền quốc tế đang khiến cho việc duy trì chế độ độc tài và chính trị khủng
bố ngày càng trở nên đắt đỏ, còn hiệu quả và năng lực răn đe của việc hành hạ
chính thức ngày càng giảm, khiến cho chế độ Cộng sản Trung Quốc hiện hành phải
tiến hành “Cuộc trình diễn Nhân quyền” và “Cuộc trình diễn Dân chủ” hoành tráng
để vừa cai trị đối nội, vừa phản ứng với bên ngoài.
Nói cách khác,
cho dù là việc luôn luôn thực thi phản kháng phi bạo lực hay dự báo rằng hệ thống
tự do sẽ là “sự cáo chung của lịch sử” thì tất cả [những lý thuyết này] suy
cho cùng đều quy về khía cạnh tinh thần của bản chất con người. Con người không
chỉ tồn tại về thể chất mà cả tinh thần, sở hữu tinh thần đạo đức – mà cốt lõi
của nó là phẩm chất làm người. Việc chúng ta đề cao phẩm chất chính là nguồn gốc
tự nhiên của việc chúng ta nhận thức về công lý. Khi một hệ thống hay một đất
nước cho phép mọi người sống có nhân phẩm thì nó sẽ ngay lập tức giành được sự ủng
hộ của nhân dân. Đây chính là cách St. Thomas Aquinas hiểu về đạo đức chính trị:
Sự cai trị tốt và có đạo đức không chỉ ở việc duy trì trật tự mà [hơn thế,] còn
là xây dựng nhân phẩm. [Nếu hành động] khác đi, [chính phủ] sẽ kích thích các
hình thức phản kháng khác nhau, trong đó phản kháng vì thấy trái lương tâm sẽ
là một trong những hình thức chính yếu. Lý do tại sao hệ thống tự do có thể dần
hay thế độc tài và kết thúc Chiến tranh Lạnh có thể được coi là sự cáo chung của
lịch sử chính là vì cái trước [hệ thống tự do] thừa nhận và tôn trọng nhân phẩm,
còn cái sau [độc tài] không công nhận nhân phẩm và hạ thấp nó bằng cách kéo
nhân phẩm xuống bùn.
Sự vĩ đại của phản
kháng bất bạo động là cho dù con người đối mặt với chuyên chế bạo ngược và gánh
chịu hậu quả nhưng nạn nhân lại đáp lại thù hận bằng tình yêu, định kiến bằng
bao dung, kiêu ngạo bằng khiêm nhường, hạ nhục bằng phẩm hạnh, và bạo lực bằng
lý lẽ. Như thế, bằng tình yêu khiêm tốn và đức độ, nạn nhân đã chủ động mời kẻ
bạo ngược quay về với các quy tắc lý lẽ, hòa bình và thương yêu, nhờ đó phá
vòng luẩn quẩn “thay thế nền chuyên chế này bằng nền chuyên chế khác.”
Cải cách từ dưới
lên đòi hỏi sự tự nhận thức của nhân dân, cùng các phong trào phản kháng dân sự
hoặc các phong trào bảo vệ quyền tự khởi phát, kiên trì và liên tục mở rộng
trong nhân dân.
Trong một xã hội
không tự do dưới quyền cai trị của độc tài, trong bối cảnh tạm thời thiếu vắng
quyền lực có khả năng thay đổi bản chất độc tài của chế độ thì những cách thức
dân sự mà tôi biết nhằm thúc đẩy việc chuyển đổi xã hội Trung Quốc từ dưới lên
bao gồm:
Phong trào bảo vệ
quyền phi bạo lực không nhằm vào mục tiêu giành quyền lực chính trị mà nhằm xây
dựng xã hội nhân văn nơi con người có thể sống có phẩm hạnh. Điều đó có nghĩa
là tìm cách mở rộng một xã hội dân sự độc lập bằng cách thay đổi cách sống của
mọi người – phong cách thờ ơ, hèn nhát và sẵn lòng làm nô lệ - trước hết bằng nỗ
lực mở rộng không gian và nguồn lực cho xã hội dân sự, nơi kiểm soát của chính
quyền còn yếu. Sau đó, dùng phản kháng phi bạo lực để tối ưu hóa không gian xã
hội do chính quyền kiểm soát, và bằng cách tăng cái giá mà chính phủ độc tài phải
trả để kiểm soát không gian dân sự, giúp các quyền tự do dân sự từng bước tiến
lên trong khi quyền lực của chính quyền ngày càng thu hẹp.
Phong trào bảo vệ
quyền phi bạo lực không cần phải theo đuổi mục tiêu chuyển đổi hoàn toàn. Thay
vì vậy, nó phải nhằm vào việc đưa tự do vào thực tiễn cuộc sống hàng ngày bằng
việc khởi phát các ý tưởng, diễn đạt ý kiến, và các hành động bảo vệ quyền; đặc
biệt bằng việc tích lũy liên tục từng trường hợp bảo vệ quyền, nó sẽ có thể
tích tụ tài nguyên đạo đức và công lý, tài nguyên tổ chức và kinh nghiệm hành động
trong khu vực dân sự. Khi các lực lượng công dân chưa đủ mạnh để thay đổi toàn
cục môi trường chính trị vĩ mô, ít nhất họ có thể dựa vào lương tri cá nhân và
hợp tác nhóm nhỏ để thay đổi môi trường chính trị vi mô cấp độ nhỏ trong tầm
tay. Ví dụ, các nhà báo kỳ cựu như Lu Yuegang và Li Datong nổi dậy chống lại hệ
thống tin tức chính thức đã đạt được những kết quả rõ rệt và điều này suy cho
cùng chính là việc làm đúng đắn ở phạm vi nhỏ trong tờ Thanh niên Trung Quốc
(Trung Quốc Thanh niên Báo).
Bất chấp việc phủ
nhận tự do của chế độ và các thể chế của nó có mạnh mẽ ra sao thì mọi cá nhân vẫn
nên dùng hết khả năng để đấu tranh nhằm được sống như một người tự do; điều đó
có nghĩa là nỗ lực hết sức để sống cuộc đời trung thực, có phẩm hạnh. Trong bất
cứ xã hội nào do độc tài cai trị, khi những người theo đuổi tự do một cách công
khai vạch trần nó và thực hành những gì họ khuyên người khác, và chừng nào họ
không sợ hãi trong những việc làm nhỏ hàng ngày, thì những điều họ nói và việc
họ làm sẽ trở thành sức mạnh cơ bản có thể lật đổ hệ thống nô dịch. Nếu anh tin
rằng mình có lương tri cơ bản của con người và làm theo tiếng gọi của nó, hãy
thể hiện và để nó tỏa sáng trong ánh mặt trời công luận, hãy để mọi người nhìn
thấy nó và đặc biệt, hãy để kẻ độc tài nhìn thấy nó.
Ta phải không ngừng
cam kết với các giá trị tự do, theo đuổi nguyên tắc khoan dung, và thúc đẩy đối
thoại đa phương, nhất là khi các tiếng nói khác nhau và lựa chọn khác nhau nổi
lên trong nhân dân; và ta phải coi những việc kém quan trọng hơn là sự bổ trợ
cho các hình thức phản kháng nổi bật hơn, không nên tự coi mình là anh hùng tuyệt
đối và đổ lỗi một cách vô lý. Bởi vì tuy đạo đức áp đặt khác với chính trị áp đặt
nhưng nó vẫn khác xa với sự khoan dung mà chủ nghĩa tự do cần có. Việc một người
sẵn lòng trả giá cao cho lý tưởng mà anh ta hoặc cô ta lựa chọn không đủ để biện
bạch cho việc ép buộc người khác phải có những hy sinh lớn lao cho các lý tưởng
ấy.
Dù là người nằm
trong hay ngoài hệ thống, làm việc từ dưới lên hay từ trên xuống, mỗi người phải
tôn trọng quyền được nói của người khác. Kể cả những tuyên bố và hành động của
những người gắn liền với chính phủ, miễn là họ không gây áp lực lên thảo luận độc
lập giữa mọi người và phong trào bảo vệ quyền, đều phải được coi là cách khai
thác các chiến lược chuyển đổi một cách hữu ích, và quyền được nói của họ phải
được tôn trọng đầy đủ. Những ai vận động cho chuyển đổi từ trên xuống phải duy
trì sự tôn trọng phù hợp với những cách thức khai thác từ dưới lên. Trong phạm
vi tôn trọng và đối xử bình đẳng lẫn nhau, việc tranh luận và đối thoại giữa những
người thuộc vị trí từ dưới lên và từ trên xuống sẽ càng giúp tạo ra sự đồng thuận
trong người dân về con đường chuyển đổi. Đó chính là ý nghĩa của câu nói: “Mọi
con đường đều dẫn tới thành Rome.” Tuy vậy, sự bao dung không đồng nghĩa với việc
ngầm đồng lòng với chuyên chế, nó cũng không có nghĩa lún vào vũng lầy chủ
nghĩa tương đối thuần túy. Cụ thể, nền tảng cho lập trường phi chính phủ tự do
là sự đối lập vững chắc của người dân về phát ngôn và hành động đối với bất cứ
đàn áp nào từ chính phủ bất kể hình thức đàn áp là đe dọa, hối lộ, chỉnh huấn,
khai trừ, cấm đoán, bắt bớ hay đàn áp bằng luật.
Nói chung, con
đường thể chế thông thường nhằm đối đầu, không né tránh quyền lực độc tài xưa
nay luôn hiện hữu là: [ta phải] chủ động cải thiện địa vị của số dân cư không
có quyền, chứ không nên đặt hy vọng vào sự xuất hiện của một ông chủ sáng suốt
hay kẻ cai trị nhân đức nào. Trong cách hành xử chiến lược giữa xã hội dân sự
và chính phủ, cho dù chính sách chính thức có thay đổi thế nào thì điều quan trọng
nhất vẫn là khuyến khích và hỗ trợ phong trào bảo vệ quyền công dân và nhanh
chóng bám chắc vào vị trí độc lập của xã hội dân sự. Đặc biệt ở tình huống đơn
độc đối đầu nền cai trị tồi giữa hàng loạt những kẻ đồng ca nịnh bợ, ta phải
cam kết chỉ trích và phản đối chế độ độc tài trên cương vị của người đứng ngoài.
Khi quyết định chính sách của chính quyền cứng nhắc, ta phải làm cho nó trở nên
linh hoạt, khi thái độ của chính quyền được nới lỏng, ta phải tận dụng điều đó
để mở rộng nguồn lực và không gian dân sự. Trong khi ủng hộ việc ra chính sách
đúng đắn trong hệ thống, ta đồng thời phải duy trì vị trí người ngoài cuộc và
kiên định trong việc phản biện, phê bình của mình.
Tóm lại, công cuộc
[trở thành] một xã hội tự do của Trung Quốc sẽ chủ yếu dựa vào sự cải thiện dần
dần từ dưới lên chứ không phải là một cuộc cách mạng “phong cách Tưởng Kinh Quốc”. Cải cách từ dưới lên đòi hỏi sự tự nhận thức trong nhân dân và cần có các phong
trào phản kháng dân sự hoặc bảo vệ quyền không ngừng mở rộng trong nhân dân.
Nói cách khác, hãy theo đuổi [việc xây dựng] các lực lượng tự do và dân chủ
trong nhân dân; đừng theo đuổi việc xây dựng lại xã hội thông qua thay đổi căn
bản thể chế, thay vào đó hãy sử dụng sự thay đổi xã hội từ từ để thúc đẩy thay
đổi chế độ. Như vậy tức là dựa vào một xã hội dân sự liên tục lớn mạnh để cải
cách một chế độ thiếu vắng tính chính danh.
Ghi chú:
1. Sergeyevich Gorbachev (sinh 1931) là Tổng bí
thư Đảng Cộng sản Liên Xô (nhiệm kỳ 1985-1991) trước vị Tổng bí thư cuối cùng của
Đảng, và là nguyên thủ quốc gia cuối cùng của Cộng hòa XHCN Liên bang Xô Viết,
nhiệm kỳ từ năm 1988 cho tới khi Liên Xô sụp đổ năm 1991.
2. Tưởng Kinh Quốc
(1910-88) là chính trị gia và lãnh đạo Quốc dân Đảng. Là con trai của Tưởng Giới
Thạch, ông là thủ tướng đầu tiên (1972-78) của Cộng hòa Trung Hoa (Đài Loan),
sau đó là Tổng thống từ năm 1978 tới khi ông mất năm 1988. Dưới nhiệm kỳ của ông,
chính phủ Cộng hòa Trung Hoa tuy toàn trị nhưng trở nên cởi mở và khoan dung
hơn với đối lập chính trị. Về cuối đời, Tưởng nới lỏng kiểm soát của chính phủ
đối với truyền thông và ngôn luận.
3. Xem Francis
Fukuyama, “The End of History?” National Interest, Số 16 (Mùa hè 1989): tr.
3-18. (Bản dịch tiếng Việt có tại: http://nghiencuuquocte.net/2013/07/28/38-su-cao-chungcua-lich-su/)
4. Năm 1987, Tổng
thống Tưởng Kinh Quốc chấm dứt quân luật ở Đài Loan và bắt đầu quá trình dần tự
do hóa chính trị, cho phép các nhóm đối lập được hình thành.
Nguồn:http://nghiencuuquocte.net/wp-content/uploads/2013/08/nghiencuquocte-net-56-luu-hieu-ba-ve-cong-cuoc-tim-kiem-dan-chu-cua-tq.pdf