Triệu Quang Minh(*) & Trần Thị
Lan Hương(**)
Tạp chí Triết học, số 2 (213),
tháng 2 - 2009
Xuất phát từ quan niệm của Hàn
Phi về bản chất con người, bài viết tập trung phân tích phương pháp giáo hoá đạo
làm người của ông. Nội dung của phương pháp giáo hoá này dựa trên cơ sở quan niệm
của Hàn Phi về pháp trị với ba phạm trù căn bản: pháp, thế và thuật. Cuối cùng,
bài viết khẳng định rằng, mặc dù còn có những hạn chế nhưng học thuyết triết học
- chính trị nói chung, quan niệm về con người nói riêng của Hàn Phi đã tạo nên
một dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc nói riêng, trong lịch sử tư
tưởng nhân loại nói chung.
Pháp gia được biết đến với tư
cách một trong bốn trường phái lớn nhất của hệ thống tư tưởng triết học Trung
Quốc thời cổ đại. Trong số các đại biểu lớn của trường phái này, Hàn Phi được
coi là người tập đại thành tư tưởng Pháp gia. Chính vì vậy, vấn đề con người
trong triết thuyết chính trị của ông là sự tập hợp đầy đủ toàn bộ nội dung căn
bản về vấn đề này của trường phái Pháp gia. Bên cạnh đó, khi nghiên cứu vấn đề
này, chúng ta có thể thấy, vượt lên hình ảnh con người thần bí, đức độ với những
tấm gương hoàn hảo của Nho gia, Hàn Phi đã động chạm tới điểm mấu chốt nhất của
giá trị Người trên cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực. Có lẽ vì thế mà Pháp
gia thường được đề cập tới như một thứ công cụ để trị người hơn là dạy người và
dùng người. Mặt khác, khi nghiên cứu vấn đề con người trong tư tưởng Hàn Phi,
chúng ta bắt gặp không ít vấn đề của xã hội hiện tại, những giá trị mới trong
những nội dung tưởng như đã cũ.
1. Quan niệm về bản chất con người
của Hàn Phi
Là học trò của Tuân Tử, Hàn Phi
tán đồng quan niệm “tính con người ta vốn ác”(1) của Tuân
Tử, đồng thời có bổ sung và phát triển thêm những nội dung mới. Những nội dung
về vấn đề con người trong triết thuyết của ông khá tàn nhẫn và thể hiện một sự
công phá từ bên trong khi ông nhận ra bản chất đích thực của con người lại thường
bị che giấu bởi những giá trị không thật. Ông chấp nhận con người với đầy đủ bản
năng sinh tồn để đấu tranh cho sự tồn tại của chính bản thân mình như một lẽ tự
nhiên. Với xuất phát điểm đó, Hàn Phi đã đi thẳng vào khía cạnh lợi ích cá nhân
- chủ yếu là lợi ích về mặt vật chất, để khẳng định cơ sở sự tồn tại của con
người và bản tính vốn hám lợi, sợ hại của mọi cá thể. Theo Hàn Phí, bản chất
này được bộc lộ qua vô số các hiện tượng khác nhau, như người đóng quan tài thì
mong cho người ta chết, người làm cỗ xe thì mong cho người ta được sang, thầy
thuốc thì mong người ta bị bệnh nhiều còn trong quan hệ vua tôi: “Làm hại đến
thân mình mà có lợi cho nước, bầy tôi không làm… Tình cảm của bề tôi là không
thấy cái lợi ở chỗ thân mình bị thiệt hại”(2). Cho nên, với Hàn Phi, các quan hệ
giữa người với người đều bị quyết định bởi cái lợi ích thiết thân; cái lợi ở
đâu thì người ta theo đó mà làm, cái hại đến thân ở đâu thì người ta theo đó mà
tránh, mọi giá trị nhân, nghĩa đều chỉ là giả dối.
Thẳng thắn nhìn vào con người với
tư cách một sinh vật mang bản chất hám lợi và ích kỷ, Hàn Phi chấp nhận sự tồn
tại một cách tự nhiên và phổ biến của dạng người này như một sản phẩm tất yếu của
quá trình phát triển. Theo ông, đã có thời kỳ lịch sử con người không đặt cái lợi
ích lên hàng đầu, đó là thời thượng cổ. Lúc đó, “đàn ông không cày vì các sản
phẩm của cây, cỏ đủ để ăn; đàn bà không dệt vì da của chim muông đủ để mặc:
Không phải vất vả mà việc nuôi dưỡng có đủ, số người thì ít mà tài sản thì có
thừa. Vì vậy cho nên nhân dân không phải tranh giành. Bởi vậy không cần phải
thưởng hậu, không phải dùng hình phạt nặng mà nhân dân tự nhiên trị an”(3). Về
sau, con người đông lên còn của cải ít đi, nên mặc dù họ đã cố gắng, vất vả làm
việc nhưng vẫn không đủ sống. Lúc này, xã hội bắt đầu nảy sinh sự tranh giành của
cải, cướp bóc lẫn nhau, và xã hội vì thế mà loạn.
Hàn Phi đã giải thích mâu thuẫn
xã hội bắt đầu từ lợi ích kinh tế trên cơ sở phân tích sự biến đổi của điều kiện
dân số, tình trạng dân cư, trình độ của công cụ lao động… Có thể nói, khi khẳng
định ảnh hưởng mang tính quyết định của yếu tố kinh tế đối với mỗi cá nhân và từng
xã hội, Hàn Phi đã động chạm đến gốc rễ của vấn đề - cái gốc rễ mà nhiều người
đương thời đã che đậy, không dám thẳng thắn thừa nhận. Hơn thế, Hàn Phi còn nhận
ra tác dụng hai chiều của yếu tố kinh tế đối với con người. Một mặt,
cái lợi là yếu tố căn bản thúc đẩy con người hành động, tranh giành của cải và
là nguyên nhân gây ra mâu thuẫn; nhưng, mặt khác, nó cũng là yếu tố
liên kết con người với nhau. Theo đó, hành động vì cái lợi là lẽ bình thường, vấn
đề là cần đặt cái lợi riêng trong cái lợi chung, không vì cái lợi riêng mà đi
ngược lại cái lợi chung. Đây là tư tưởng biện chứng khá sâu sắc của Hàn Phi.
Ông đã đánh giá xã hội đương thời và phê phán chế độ quân chủ một cách sắc bén
và thẳng thắn. Trong hệ thống triết học - chính trị của Hàn Phi, mỗi con người
với tư cách cá nhân đều bị “lột trần” cái vỏ bọc bề ngoài để hiện ra với nguyên
nghĩa cá thể cần những giá trị căn bản bên trong như nhau để tồn tại. Theo Hàn
Phi, bản chất hám lợi và sợ hại ấy của con người là cái không thể che giấu, sửa
đổi, nhưng nếu biết sử dụng nó sao cho hợp lý trong các mối quan hệ giữa người
với người thì nó sẽ đem lại hiệu quả nhất định.
2. Phương pháp giáo hoá đạo làm
người của Hàn Phi
Để tìm ra những nội dung thực chất,
bên trong của xã hội quân chủ và bản chất của con người nói chung, từ đó chỉ ra
đạo làm người với tư cách nguyên lý cơ bản, Hàn Phi đã xuất phát từ các điều kiện
lịch sử cụ thể, dùng chính sự trải nghiệm của bản thân kết hợp với vốn kiến thức
uyên thâm về nhiều lĩnh vực như lịch sử, văn học, chính trị… Đặc biệt, “ông là
con người duy nhất của Trung Quốc thực hiện được một sự tổng hợp ba học thuyết
Nho, Lão, Pháp, ở đó Nho là tài liệu xây dựng, Pháp là cái bản thiết kế, nhưng
Lão mới là kỹ thuật thi công của cái ngôi nhà độc đáo”(4). Tất cả những lý do
trên khiến cho đạo làm người của Hàn Phi không đi quá nhiều vào nguyên lý mà
thường xuất phát từ điều kiện xã hội và hoàn cảnh cụ thể để phân tích đúng,
sai, được, mất.
Đạo làm người không được Hàn Phi
trình bày với tư cách một nội dung độc lập, mà nó biểu hiện qua những câu chuyện
luận bàn về lối xử thế và cách nhìn nhận sự vật, sự việc để hành động… Ở đó,
chúng ta có thể thấy, quan niệm Đạo của Lão Tử, Chính danh của Nho gia, nhưng
dưới hình thức, cách lý giải và vận dụng khác. Theo Hàn Phi, không thể gọi tên
hay định hình đạo ấy, vì nó luôn biến dịch theo thời. Trong quyển VI, thiên XX, Giải
Lão, Hàn Phi khẳng định tính biến dịch của đạo: Đạo cũng giống như nước, kẻ
khát uống nó mà sống, người chết đuối vì uống nó nhiều mà chết. Nó cũng giống
như thanh kiếm, mũi giáo, người ngu dùng nó vào việc phẫn nộ mà sinh ra hoạ, bậc
thánh nhân dùng nó tạo ra cái phúc bằng cách trừng trị kẻ bạo ngược. Như vậy,
có thể thấy, Hàn Phi vẫn giữ cái đạo pháp tự nhiêngiống như trong
quan niệm của Lão Tử và quan trọng hơn cả, đó là hiểu được lẽ tự nhiên để đề
phòng và tận dụng. Nói cách khác, bằng cách nhìn thẳng vào các quan hệ bất biến
với lối tư duy độc đáo, Hàn Phi đã đặt mọi vật, mọi việc, mọi cá thể vào mối
quan hệ tất yếu để từ đó khẳng định đạo làm người là cái phải được chấp nhận
như lẽ tất nhiên. Thực chất, quan niệm này có tiền đề từ chính tồn tại xã hội
và ý thức xã hội của Trung Quốc cổ đại.
Sống trong thời đại tranh bá,
tranh vương, mua danh, bán tước, Hàn Phi nhận ra và thấu hiểu các mánh khoé của
tất cả các hạng người trong xã hội. Nhưng, ông không vì thế mà bi quan trước thế
cục để ảo tưởng mơ về một thời đại huy hoàng như thời đại trước. Đối với Hàn
Phi, các đời Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ đều làm trái cái nghĩa thông thường, làm
cho việc giáo hoá đời sau bị rối loạn. Cho rằng, đức dày không đủ để ngăn cấm
điều loạn nhưng uy thế thì có thể, ông phản đối cách đề cao các bậc đế vương
theo lối học thuật để dạy người. Theo Hàn Phi, hình phạt là gốc của lòng
thương, xét cái đạo hiếu đễ, trung thuận cho kỹ mà thi hành. Chính vì thế, quan
niệm của Hàn Phi không quá khó hiểu nhưng cũng không hẳn là dễ áp dụng. Mặc dù
vậy, chúng ta vẫn có thể nhận thấy, đằng sau những nội dung xử thế tưởng như
khá cực đoan là một Hàn Phi với cách nhìn khách quan, thẳng thắn, biện chứng về
mối quan hệ giữa người với người mà không phải nhà tư tưởng nào cũng có được và
dám nhắc đến. Tuy nhiên, dưới chế độ quân chủ, trong xã hội chỉ có một cá thể
có quyền cao nhất, đó là nhà vua. Vì thế, về nguyên tắc, đạo là nguyên lý chung
để con người tồn tại, nhưng trên thực tế, thi hành đạo chỉ có nhà vua và chỉ có
đạo của vua chúa. Nhà vua phải thông qua hệ thống pháp luật, dựa vào thế và thuật
của mình để vận hành bộ máy quan lại và cai trị nhân dân. Nói cách khác, nội
dung phương pháp giáo hoá đạo làm người cho mọi thành viên trong xã hội theo tư
tưởng của Hàn Phi tập trung vào ba phạm trù căn bản: pháp, thế, thuật.
Thứ nhất, bàn về
“pháp”, Hàn Phi quan niệm: “Pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ ràng ở nơi cửa
công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho những kẻ cẩn thận giữ
pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh”(5). Theo ông, nội
dung chủ yếu của pháp luật là những quy định thưởng và phạt. Pháp luật đã đặt
ra thì không phân biệt kẻ sang, người hèn, đại thần hay kẻ thất phu. Đó chính
là tính công bằng của pháp luật. Từ xưa đến nay, bậc vua sáng suốt có thể chế
ngự được bầy tôi, làm cho nước trị an là nhờ sử dụng pháp luật một cách công bằng
thông qua hai cái cán hình và đức. Giết chóc gọi là hình phạt, khen thưởng gọi
là ân đức. Hàn Phi khuyến khích việc thưởng hậu cho những người có công và phạt
nặng với những người vi phạm. Ông cho rằng, thưởng hậu thì cái mình muốn sẽ có
được nhanh, còn phạt nặng thì cái mình muốn ngăn cấm sẽ ngăn cấm được nhanh
chóng. Cái lý của Hàn Phi về vấn đề này khá rõ ràng: “áp dụng hình phạt nhẹ
nhàng người dân tất sẽ coi thường phạm thêm lỗi lầm, nếu người dân phạm tội mà
không bị lên án thì pháp lệnh sẽ mất hiệu lực. Cho nên hình phạt nhẹ nếu không
làm nhiễu loạn đất nước thì cũng giăng bẫy người dân, đó mới thực sự là tổn hại
đến trăm họ vậy”(6). Quan điểm này nhất quán với nguyên tắc hình phạt là gốc của
lòng thương của ông. Trong thiên Tâm độ, sách Hàn Phi Tử (Phan Ngọc
dịch), Hàn Phi giải thích: bậc thánh nhân trị dân là xét ở cái gốc chứ không phải
theo lòng mong muốn của dân, chỉ cốt làm lợi cho dân mà thôi. Cho nên, thi hành
hình phạt không phải là ghét dân mà là vì yêu cái gốc. Hình phạt mà thắng thì
dân yên tĩnh… Bậc vua sáng trị nước, soi sáng việc thưởng thì dân hăng hái làm
công việc; dùng hình phạt nghiêm thì dân yêu quý pháp luật.
Như vậy, có thể thấy, tư
duy của Hàn Phi về việc dùng pháp luật để trị người và ổn định xã hội mang nội
dung khá biện chứng. Ông đòi hỏi khi được soạn thảo, ban hành, pháp luật phải dễ
thi hành và có tính thống nhất, công bằng và không được lấy tình cảm riêng tư để
sửa đổi tuỳ tiện. Song, pháp luật cũng không có nghĩa là nhất thành bất biến,
mà “pháp luật phải có sự chuyển hoá theo diễn biến của thời đại”(7). Tư tưởng của
Hàn Phi về vấn đề này đã thực sự vượt lên trên lập trường giai cấp của giai cấp
quý tộc và gần với những lý luận dân chủ hiện đại về pháp luật. Tuy nhiên, do
nhiều yếu tố, cả khách quan và chủ quan, trong tư tưởng của Hàn Phi, thân phận
con người trước pháp luật ở thế nhỏ bé, bị động, phụ thuộc với thân phận “nô lệ”
chứ không phải là “công dân”.
Thứ hai, bàn về “thế”,
Hàn Phi cho rằng, nhân dân sợ uy quyền chứ rất ít người quy phục đạo nghĩa. Ông
viện dẫn đến như Khổng Tử là bậc thánh nhân về mặt tu dưỡng đạo đức, lấy nhân
nghĩa làm trọng, đến sau cùng cũng chỉ có bẩy mươi người nối nghiệp; đem con số
bẩy mươi đó ra mà so sánh với số người trong thiên hạ thì thấy rằng, số người mến
trọng nhân nghĩa là rất bé nhỏ. Trong khi đó, “bậc thánh nhân trị nước không cậy
ở chỗ người ta yêu mình mà dùng cái thế khiến người ta không thể làm điều sai.
Trông cậy người ta làm điều hay cho mình thì trong một nước không đến mười người,
nhưng dùng cái thế khiến người ta không thể làm bậy thì có thể trị được cả một
nước”(8).
Theo Hàn Phi, pháp luật là công cụ
để trị dân, ổn định xã hội, nhưng để mọi người tuân thủ theo pháp luật thì người
cầm đầu chính thể phải có “thế”. Nếu cái danh của nhà vua bị hạ thấp và địa vị
bị nguy thì người dưới nhất định không theo pháp lệnh. Hàn Phi cho rằng, “Uy thế
là cái thống trị thiên hạ, là chỗ dựa để sai khiến quần thần. Có quyền thế thì
sẽ có được sự tôn quý, còn nếu bị mất quyền thế thì sẽ bị mất luôn quốc gia, sẽ
có nguy cơ bị giết hại. Cho nên nhà vua nhất định phải tự mình giữ lấy quyền thế,
không để lơ là lọt vào tay kẻ khác”(9). Tư tưởng này của Hàn Phi hoàn toàn phù
hợp với thời kỳ của xã hội quân chủ, thời kỳ tôn quân quyền. Hơn thế, Hàn Phi
còn nhận ra hai mặt của một vấn đề: một mặt, nhà vua cần phải giữ lấy
cái quyền thưởng phạt của người cầm đầu chính thể thông qua “thế” của mình với
tư cách là cái độc tôn; mặt khác, nhà vua không thể tự mình làm tất
cả các công việc, mà phải cắt đặt các chức quan và trao quyền cho họ theo
nguyên tắc minh chủ trị lại bất trị dân, điều này cũng có
nghĩa là để cai trị xã hội có hiệu quả thì nhà vua phải xác lập vị thế nhất định
cho quan lại. Cho nên, nếu bề tôi có thể mượn được và lợi dụng quyền thế của
vua thì họ có nhiều sức mạnh để làm lợi, nhà vua sẽ dần bị che lấp. Chính vì vậy,
nhà vua vẫn phải quản lý công việc thông qua hệ thống quan lại, nhưng khoanh
vùng lại để cái thế của quan chỉ đủ để thi hành pháp luật. Các quan đại thần vẫn
được phân cấp bậc, vẫn có bổng lộc và trách nhiệm cụ thể, song họ chỉ có quyền
hạn trong phạm vi nhất định, việc họ làm là để đề cao nhà vua, mỗi người làm một
chức quan, không thể chuyên quyền và lấn át người khác. Tuy nhiên, làm thế nào
để sử dụng và phát huy được “thế” thì Hàn Phi không chỉ rõ. Theo ông, cùng thi
hành cái đạo bất biến, nhưng ở mỗi ông vua lại có cái “thuật” cai trị
riêng.
Thứ ba, bàn về
“thuật”, trong thiên Định Pháp, sách Hàn Phi Tử (Phan Ngọc dịch),
Hàn Phi khẳng định: Thuật là cái nhà vua nắm lấy, là nhân trách nhiệm mà giao
chức quan, theo tên gọi mà đặt ra yêu cầu thực sự, nắm lấy cái quyền cho sống
và giết chết, hiểu rõ năng lực của bầy tôi. Ông vua nào khi lên ngôi cũng chuẩn
bị cho mình các phương sách cai trị dựa trên nội hàm căn bản đó của “thuật”.
Nhưng, việc triển khai nội dung của “thuật” thì không có triều đại nào giống hệt
các triều đại trước đó. Tại sao như vậy? Bởi vì, với mỗi triều đại, cả điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan đều đã thay đổi. Mặt khác, nếu “pháp” là cái được
lưu truyền, công bố rộng rãi, thì “thuật” mang tính bí hiểm và được triển khai
theo cơ chế ngầm, “ngay cả thê thiếp yêu quý nhất, hay các cận thần được sủng
ái hầu cận bên vua cũng không ai được biết”(10). Cho nên, theo
Hàn Phi, “vận dụng phương thuật phải bí mật bất ngờ như quỷ thần vậy… dùng thuật
mà bí mật bất ngờ như quỷ thần thì bầy tôi không có cách gì theo đó mà đầu cơ
trục lợi nữa”(11).
Theo Hàn Phi, “thuật” trước hết
thể hiện thông qua khả năng nhận dạng và phân loại con người. Bằng cách nhìn nhận
thẳng thắn, ông chỉ ra rằng, xung quanh nhà vua, ai cũng có thể trở thành kẻ
gian bởi con người không ai không ra sức liều chết để đạt được cái mình mong muốn.
Cho nên, cái quan trọng nhất đối với vua là thuật trừ gian. Muốn trừ
gian, bậc thánh nhân phải bỏ cái khôn ngoan, khéo léo, cái yêu ghét của mình. Ở
đây, không phải Hàn Phi chủ trương dựng lên một ông vua ngu dốt, giả dối, mà
theo Hàn Phi, đó là cái đạo nhìn xa trông rộng của bậc thánh nhân. Ông giải
thích, nếu nhà vua có thể từ bỏ (nhưng thực chất là che giấu) cái khéo léo,
khôn ngoan và sự yêu ghét của mình thì giữ được cái nguyên lý bất biến, khiến
cho người dưới không thể lừa dối vua, không thể che giấu cái xấu của họ, mà phải
tỏ lòng ngay thực.
Có năm loại người được Hàn Phi liệt
vào Ngũ đố, tức năm lũ sâu mọt cần xử lý, đó là bọn học giả
trong nước khen cái đạo của các tiên vương, tỏ ra mình nhân nghĩa, làm người ta
ngờ vực pháp lệnh đương thời, làm lòng vua phân vân; bọn bày ra những chuyện dối
trá, mượn sức nước ngoài để thực hiện điều riêng tư của mình, quên mất cái lợi
của xã tắc; bọn thân tín của nhà vua tụ tập ở các nhà riêng, hối lộ kẻ có quyền
thế để khỏi phải vất vả nơi chiến trận; bọn thương nhân, bọn thợ chế tạo những
vật vô dụng, chứa chất của cải để giành cái lợi gấp đôi người cày.
Tất nhiên, đối với các hạng người
khác nhau thì cần có cách trừng trị và nuôi dưỡng khác nhau. Song, trong thuật
cai trị, Hàn Phi nhấn mạnh nguyên tắc dùng công việc để sử dụng người, đó là
cái then chốt của sự còn hay mất, trị hay loạn. Cụ thể hơn, ông chỉ ra bảy thuật
vua chúa cần dùng, đó là: xem xét và so sánh các đầu mối; phạt chắc chắn nêu
cao uy quyền; thưởng chắc chắn để dùng hết năng lực; nghe mọi người và bắt người
dưới chịu trách nhiệm về điều đã nói; ra những mệnh lệnh đáng ngờ và dùng mánh
khoé để sai khiến; tập hợp những người hiểu biết sự thực; đảo ngược lời nói và
đảo ngược công việc. Ông còn yêu cầu phải có sự khảo sát, điều tra và khi có kết
quả lại phải tiếp tục kiểm tra kỹ lưỡng. Có thể thấy, quan niệm này của Hàn Phi
rất chặt chẽ, toàn diện và gần với những quan điểm hiện đại về cách quản lý và
sử dụng nhân lực.
Theo Hàn Phi, trong dùng “thuật”,
nhà vua cần thực hiện theo cơ chế: bên trong thì có biện pháp đề phòng, thay đổi
luôn luôn, bên ngoài thì cứ chiếu theo phép tắc mà xử. Vua biết tập hợp cái
khôn của nhiều người thì không giỏi cũng thành giỏi. Song, “người tài trí chưa
chắc có đạo đức, họ thường xuyên mưu mô để hại nhà vua. Còn người tu thân, liêm
khiết thì không đa mưu, túc trí, phán quyết công việc thường tự cho là mình
đúng, làm cho sự việc rối tung lên”(12). Điều đó cũng
có nghĩa là việc sử dụng con người cái chính là căn cứ vào thế mạnh của họ,
nhưng bổ nhiệm những chức quan trọng thì nhất định phải xem xét nhiều mặt. Cách
tốt nhất là để cho bề tôi tự trình bày, theo đó giao việc, xét kết quả công việc
và lời nói ban đầu mà thưởng phạt theo quy định của pháp lệnh.
Có thể nói, nhờ có “thuật” trị nước
mà nhà vua tuy ở trong cung nhưng vẫn nắm được mọi tình hình, không làm gì mà
thực chất lại đang chi phối tất cả, lấy cái tĩnh của mình để khống chế cái động
của lòng người. Cho nên, theo Hàn Phi, cái đạo bất biến của việc cai trị là lấy
cái danh (tức tên gọi) làm đầu. Danh đã chính thì sự vật được xác định. Cái
danh mà thiên lệch thì sự vật thay đổi. Cái danh được dùng để định rõ vị trí của
mỗi người, lấy cái chức tước, cái danh phận để giao việc, lấy bổng lộc để khuyến
khích họ, nhưng nhà vua xét cái hình, tức tình hình thực tế công việc của họ để
thưởng và phạt. Đó chính là nguyên lý vua nắm cái danh, bề tôi chạy cái thực.
Cho nên, xét ra thì thuyết Chính danh của Nho gia và Hình danh của Pháp gia
(Hàn Phi) đều đặt mục tiêu ổn định xã hội, nhưng nếu Chính danh định phận nhằm
duy trì trật tự đẳng cấp khắc nghiệt, thì Hình danh của Pháp gia lại mang mầm mống
của tư tưởng bình đẳng.
Nhìn chung, học thuyết Pháp trị của
Hàn Phi được xây dựng và hoàn thiện dựa trên những tiền đề lý luận và thực tiễn
chắc chắn. Bằng con mắt tinh đời, ông nhìn nhận sự vật, sự việc một cách thẳng
thắn và khách quan. Với lối tư duy biện chứng và cách diễn đạt đầy thuyết phục,
Hàn Phi đã xây dựng một lý luận vừa có tính thực tiễn cao, vừa có lôgíc chặt chẽ.
Ông nhìn thế cục và con người tuy lạnh lùng, tàn nhẫn và có phần cực đoan,
nhưng không bi quan. Ông đề cao vai trò của pháp luật và coi trọng việc giáo dục.
Ông quan niệm rằng, nếu cứ đợi mũi tên tự thẳng thì một trăm đời cũng không có
mũi tên, nếu đợi cây gỗ tự tròn thì một ngàn đời cũng không có bánh xe. Cho
nên, với Hàn Phi, hình phạt là gốc của lòng thương, sự giáo dục cần phải được
tiến hành sớm và liên tục để ngăn chặn mọi cơ hội biểu hiện bản chất vụ lợi của
con người. Song, nếu cho rằng học thuyết của Hàn Phi nặng về hình, nhẹ về đức
khi ông chủ trương dùng pháp luật để giải quyết tất cả mọi việc thì chưa thật
thoả đáng. Bởi lẽ, theo quan điểm của Hàn Phi, pháp luật thấu suốt tình
cảm con người, nên trong cái “hình” đã có cái “đức”, không hề có sự
tách biệt. Có thể nói, Hàn Phi đã ghi dấu ấn của mình vào lịch sử tư tưởng
Trung Quốc nói riêng và lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung với một học thuyết
dám nhìn thẳng vào sự thật và khẳng định những giá trị lợi ích căn bản là động
cơ cho mọi hành động của con người, bóc trần mọi quan hệ giả tạo giữa người với
người, phê phán chế độ quân chủ từ bên trong.
Bên cạnh đó, cũng có thể thấy rằng,
quan điểm của Hàn Phi về con người còn nhiều hạn chế, nhất là việc ông chỉ thấy
khía cạnh vụ lợi của con người mà không thấy con người còn có rất nhiều lý tưởng
cao đẹp để phấn đấu và hy sinh. Đồng thời, ở một khía cạnh nhất định, mục tiêu
xây dựng lý luận của ông là nhằm tạo ra một công cụ phục vụ cho nhà vua củng cố
địa vị và quyền lực độc tôn của mình. Cho nên, con người trong học thuyết của
ông luôn ở địa vị thấp hèn và bị phụ thuộc. Sự bình đẳng của con người trước
pháp luật là sự bình đẳng về thân phận người nô lệ dưới ngai vàng của nhà vua.
Cuối cùng, có thể nói, để bao
quát hết được nội dung và đánh giá được một cách khách quan cũng như đến được tầng
sâu của vấn đề con người trong triết thuyết của Hàn Phi là một việc không hề
đơn giản. Song, việc trở lại một vài khía cạnh cơ bản của vấn đề này sẽ thêm một
lần nữa khẳng định vị trí và giá trị tư tưởng của Hàn Phi - một trong những nhà
tư tưởng lỗi lạc của Trung Quốc và của nhân loại.
--------------------------------------
(**) Thạc sĩ, Trường Đại học Mỏ -
Địa chất Hà Nội.
(1) Nguyễn Hiến Lê - Giản Chi. Tuân
Tử. Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1994, tr.50.
(2) Phan Ngọc (dịch). Hàn
Phi Tử. Nxb Văn học, Hà Nội, 2005, tr.167.
(3) Phan Ngọc (dịch). Hàn
Phi Tử. Sđd., tr.540.
(4) Phan Ngọc (dịch). Hàn
Phi Tử. Sđd., tr17.
(6) Hàn Thế Chân (dịch). Hàn
Phi Tử - sự phát triển của tư tưởng Pháp gia. Nxb. Đồng Nai,1995,
tr.102
(7) Hàn Thế Chân (dịch). Hàn
Phi Tử - sự phát triển của tư tưởng Pháp gia. Sđd., tr.84.
(8) Phan Ngọc (dịch). Hàn
Phi Tử. Sđd., tr.568.
(10) Hàn Thế Chân (dịch): Hàn
Phi Tử - sự phát triển của tư tưởng Pháp gia. Sđd., tr.81
Nguồn:http://philosophy.vass.gov.vn/nghien-cuu-theo-chuyen-de/Lich-su-Triet-hoc/Van-de-con-nguoi-trong-quan-niem-phap-tri-cua-Han-Phi-628.html