Mai Thái Lĩnh
Trái với dự kiến của Marx và
Engels, quan niệm “chuyên chính vô sản” khi đem áp dụng vào thực tế đã không tạo
ra được một nhà nước kiểu mới chuẩn bị cho sự tiêu vong của chính mình, mà cũng
không thể tạo ra những thiết chế dân chủ hơn so với chế độ dân chủ tư sản. Lịch
sử trong thế kỷ XX đã cho thấy quan niệm ấy chỉ dẫn đến sự ra đời của một chế độ
chuyên chính kiểu mới, về bản chất có nhiều điểm tương đồng với các chế độ độc
tài (chuyên chính) đã từng có trong lịch sử, nhưng về hình thức thì được hiện đại
hoá, và được tô vẽ bằng một bề ngoài cách mạng, dân chủ.
Nhà nước xô-viết – nhà nước
chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới, trong thực tế đã trở thành một nhà
nước tiêu biểu cho chế độ toàn trị (totalitarianism, totalitarisme), nghĩa là một
thể chế trong đó Nhà nước khống chế, kiểm soát toàn bộ các hoạt động của xã hội.
Nhận xét về nhà nước xô-viết dưới thời Stalin, Raymond Aron cho rằng hiện tượng
toàn trị thể hiện ở năm yếu tố như sau:
1. Một đảng duy
nhất nắm độc quyền trong hoạt động chính trị.
2. Đảng chính
trị độc quyền được trang bị một ý thức hệ (hệ tư tưởng) và ý thức hệ này trở
thành chân lý chính thống của Nhà nước.
3. Để rao giảng
chân lý chính thống đó, Nhà nước nắm độc quyền về các phương tiện bạo lực và
các phương tiện tuyên truyền. Tất cả các phương tiện thông tin đại chúng đều được
lãnh đạo, chỉ huy bởi Nhà nước.
4. Phần lớn các
hoạt động kinh tế và nghề nghiệp đều lệ thuộc vào Nhà nước và theo một cách nào
đó, trở thành một bộ phận của chính Nhà nước. Các hoạt động kinh tế và nghề
nghiệp này cũng được nhuộm màu ý thức hệ.
5. Mọi hoạt động
đều là hoạt động của Nhà nước và đều lệ thuộc vào ý thức hệ, do đó mọi sai lầm
trong hoạt động kinh tế và nghề nghiệp đồng thời cũng là một sai lầm về ý thức
hệ. Cuối cùng dẫn đến một tình trạng chính trị hoá, một sự chuyển hoá ý thức hệ
đối với mọi sai lầm có thể có của mọi cá nhân; điều này dẫn đến một sự khủng bố
vừa mang tính chất cảnh sát, vừa mang tính chất ý thức hệ. [1]
Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai,
chuyên chính vô sản được nhân rộng ra nhiều nước trên thế giới: ở Đông Âu, châu
Á, châu Mỹ la-tinh,… Nhưng dù mang hình thức nào, xô-viết hay dân chủ nhân dân,
chuyên chính vô sản cũng là một chế độ toàn trị, biểu hiện qua tình trạng độc quyền
toàn diện.
Chế độ toàn trị tuy có những điểm
tương đồng nhưng cũng có những đặc điểm riêng làm cho nó khác với các chế độ độc
tài khác trong xã hội hiện đại. Trong khi một số chế độ độc tài (như của
Salazar ở Bồ Đào Nha) chỉ độc quyền về chính trị nhưng vẫn cho phép xã hội dân
sự tồn tại ở một mức dộ nhất định, thì chế độ toàn trị không cho phép bất cứ một
hội đoàn, tổ chức xã hội nào hoạt động, ngoại trừ các tổ chức do Đảng lập ra hoặc
kiểm soát, chi phối. Trong khi chế độ quốc xã của Hitler công khai bác bỏ các
giá trị dân chủ thì chế độ toàn trị một mặt áp dụng các biện pháp độc tài,
chuyên chế, mặt khác lại tự đề cao mình như một chế độ dân chủ ưu việt nhất,
đích thực nhất. Dựa trên thực tế của nhà nước xô-viết, chúng ta có thể xem xét
chế độ toàn trị trên ba phương diện:
Trước hết là nạn độc quyền về
chính trị.
Mặc dù trong quan niệm của Marx
và Engels, chuyên chính vô sản là chuyên chính của cả một giai cấp, và giai cấp
này theo dự kiến của Marx sẽ ngày càng chiếm tuyệt đại đa số trong xã hội,
nhưng trong thực tế, chuyên chính vô sản đã dần dần trở thành chuyên chính của
Đảng cộng sản.
Có hai nguyên nhân dẫn đến tình
trạng độc quyền chính trị này. Trước hết là việc chối bỏ những nguyên tắc của
chế độ đại nghị. Theo dự kiến của Marx, hành động đập tan bộ máy nhà nước cũ sẽ
tạo điều kiện cho giai cấp vô sản nói riêng và nhân dân lao động nói chung trực
tiếp nắm lấy quyền lực chính trị, không cần đến bộ máy nhà nước chuyên môn hoá
nữa. Nhưng những lời thú nhận của Lenin trước khi mất cho thấy dự kiến này là một
ảo tưởng. Xã hội hiện đại không thể không cần đến bộ máy nhà nước, vì vậy một
khi bộ máy nhà nước cũ bị đập tan thì ngay lập tức một bộ máy khác sẽ thay thế
vào đó. Bộ máy nhà nước mới, cho dù mang hình thức mới, về bản chất vẫn là một
bộ máy nhà nước tách rời khỏi xã hội. Do chỗ những nguyên tắc của chế độ đại
nghị bị chối bỏ, bộ máy này không gặp một sự ngăn cản, hạn chế nào trên con đường
phát triển theo chiều hướng chuyên chính hoá, quan liêu hoá. Các đảng phái
chính trị khác lần lượt bị loại bỏ hoặc nếu còn thì cũng chỉ là hình thức trang
trí; chế độ chuyên chính vô sản về thực chất là chế độ độc đảng, trong đó Đảng
gắn chặt với Nhà nước. Nhà nước là tổ chức công khai để cai trị, điều hành xã hội,
nhưng Đảng cộng sản ở hậu trường mới là tổ chức nắm thực quyền về chính trị.
Nguyên nhân thứ hai bắt nguồn từ
chính nguồn gốc của Đảng bolshevik Nga. Như chúng ta đã biết, Đảng bolshevik
Nga lúc đầu chỉ là một bộ phận của Đảng Dân chủ – xã hội Nga (tên đầy đủ là Đảng
Công nhân Dân chủ – xã hội Nga, Russian Social Democratic Workers’ Party). Sự
khác biệt về quan điểm giữa Lenin và các lãnh tụ khác của đảng xung quanh vấn đề
tổ chức đảng đã có ngay từ đầu thế kỷ XX. Năm 1902, Lenin cho xuất bản cuốn Làm
gì?, trong đó ông lập luận rằng cuộc cách mạng ở Nga phải được lãnh đạo bởi một
đảng bao gồm những nhà cách mạng chuyên nghiệp, được tổ chức theo kỷ luật kiểu
quân sự, nhằm lãnh đạo quần chúng công nhân đến thắng lợi. Tại Đại hội lần 2 của
Đảng DCXH Nga (năm 1903), quan niệm của Lenin về tổ chức đảng đã giành được sự ủng
hộ của đa số đại biểu, do đó mà phe ủng hộ Lenin được gọi là phái bolshevik
(trong tiếng Nga có nghĩa là đa số); trong khi phe chủ trương đảng phải được tổ
chức một cách lỏng lẻo hơn, mở rộng hơn – trong đó có Martov, chỉ chiếm được
thiểu số, được gọi là phái menshevik (theo tiếng Nga có nghĩ là thiểu số). Cuộc
đấu tranh giữa những người bolshevik và menshevik đã dẫn đến kết quả là vào năm
1912, những người bolshevik tách ra để thành lập một đảng độc lập lấy tên là Đảng
bolshevik Nga.
Có thể nói tính chất kỷ kuật sắt
là một trong những yếu tố quan trọng làm nên sức mạnh của Đảng bolshevik. Trong
hoàn cảnh của những nước lạc hậu về kinh tế, trình độ dân trí không cao, phong
trào cách mạng chịu sự đàn áp ác liệt của các thế lực bảo thủ, phản động, thì
trong số các đảng phái đấu tranh cho sự đổi mới, đảng cộng sản được tổ chức
theo kiểu bolshevik là tổ chức có sức chịu đựng cao nhất, có khả năng vượt qua
được những sự đàn áp khốc liệt nhất. Chính kỷ luật sắt và ý chí cao đã giúp Đảng
bolshevik giành được chính quyền và lần lượt loại bỏ các đảng phái khác ra khỏi
chính trường nước Nga. Nhưng ưu điểm trong đấu tranh giành quyền lực lại cũng
là nhược điểm trong thời kỳ nắm chính quyền. Tính chất kỷ luật sắt, tâm lý phục
tùng là những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho xu hướng tập trung quyền hành,
độc đoán, chuyên quyền, nhất là khi Đảng bolshevik độc chiếm chính quyền.
Một số nhà nghiên cứu bênh vực
cho Lenin đã gán hết mọi sai lầm cho Stalin, và lập luận rằng nếu Lenin còn sống,
có thể chế độ xô-viết sẽ tốt hơn, dân chủ hơn. Tuy nhiên, mặc dù chúng ta không
thể lẫn lộn giữa Stalin với Lenin, nhưng cũng cần phải thấy rằng xu hướng độc
quyền chính trị đã có ngay từ thời Lenin còn sống.
Trong tác phẩm Bệnh ấu trĩ tả
khuynh của phong trào cộng sản (1920), Lenin đã giải thích về mối quan hệ giữa
lãnh tụ – đảng – giai cấp – quần chúng như sau:
Thực hiện nền chuyên chính, là do
giai cấp vô sản được tổ chức trong các Xô-viết và chịu sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản bôn-sê-vích gồm 611000 đảng viên, theo số liệu của Đại hội vừa qua (IV.1920).
(…)
Trong công tác, đảng dựa trực tiếp
vào các công đoàn mà theo số liệu của đại hội vừa qua (IV.1920) thì hiện có
trên bốn triệu đoàn viên, và về hình thức thì đó là những tổ chức không đảng.
Thực ra, tất cả những cơ quan lãnh đạo của tuyệt đại đa số công đoàn và trước hết,
dĩ nhiên là Trung ương hay Thường vụ các công đoàn toàn Nga (Hội đồng trung
ương các công đoàn toàn Nga) đều gồm những đảng viên cộng sản và thi hành tất cả
những chỉ thị của đảng. Tóm lại, chúng ta có một bộ máy vô sản, về hình thức
thì không phải là cộng sản, một bộ máy mềm dẻo và tương đối rộng rãi, rất mạnh,
một bộ máy mà thông qua đó đảng liên hệ chặt chẽ với giai cấp và với quần chúng
và thông qua đó, chuyên chính của giai cấp được thực hiện dưới sự lãnh đạo của
đảng. (Lenin, Sđd, tr. 57-59)
Như vậy có nghĩa là Đảng bolshevik độc chiếm chính quyền, với một bề ngoài mang dáng dấp “nhân dân”. Nhưng nói Đảng bolshevik lãnh đạo không có nghĩa là quyền hành được phân chia đồng đều cho hơn nửa triệu đảng viên. Cũng chính Lenin đã giải thích về cách điều hành hoạt động của Đảng như sau: Đảng họp đại hội hàng năm, và bầu ra một Ban chấp hành trung ương gồm 19 uỷ viên. “Và trong nước cộng hoà của chúng ta, không có một vấn đề chính trị hay tổ chức quan trọng nào do một cơ quan nhà nước giải quyết mà lại không có chỉ thị của Ban chấp hành trung ương Đảng”. Công tác hàng ngày thì giao cho những tập thể ít người hơn, gọi là Ban Tổ chức (Orgburo, Orgbureau) và Bộ chính trị (Politburo, Politbureau) do Ban chấp hành bầu ra, mỗi tập thể có 5 uỷ viên cử trong số uỷ viên Ban chấp hành Trung ương. Lenin xác nhận: “Như vậy là thành “nhóm quả đầu” thực sự” (Sđd, tr. 58). Chế độ quả đầu (oligarchy, oligarchie) [2] chính là chế độ thiểu số trị: quyền hành tập trung vào tay một số ít người.
Như vậy có nghĩa là Đảng bolshevik độc chiếm chính quyền, với một bề ngoài mang dáng dấp “nhân dân”. Nhưng nói Đảng bolshevik lãnh đạo không có nghĩa là quyền hành được phân chia đồng đều cho hơn nửa triệu đảng viên. Cũng chính Lenin đã giải thích về cách điều hành hoạt động của Đảng như sau: Đảng họp đại hội hàng năm, và bầu ra một Ban chấp hành trung ương gồm 19 uỷ viên. “Và trong nước cộng hoà của chúng ta, không có một vấn đề chính trị hay tổ chức quan trọng nào do một cơ quan nhà nước giải quyết mà lại không có chỉ thị của Ban chấp hành trung ương Đảng”. Công tác hàng ngày thì giao cho những tập thể ít người hơn, gọi là Ban Tổ chức (Orgburo, Orgbureau) và Bộ chính trị (Politburo, Politbureau) do Ban chấp hành bầu ra, mỗi tập thể có 5 uỷ viên cử trong số uỷ viên Ban chấp hành Trung ương. Lenin xác nhận: “Như vậy là thành “nhóm quả đầu” thực sự” (Sđd, tr. 58). Chế độ quả đầu (oligarchy, oligarchie) [2] chính là chế độ thiểu số trị: quyền hành tập trung vào tay một số ít người.
Có thể trong thâm tâm Lenin vẫn
tin rằng với cách lãnh đạo như thế, Đảng bolshevik sẽ giúp giai cấp công nhân
vươn lên làm chủ được Nhà nước. Nhưng với những điều ông thú nhận vào cuối đời,
chúng ta thấy rõ niềm tin đó chỉ là một ảo tưởng.
Sau khi Lenin mất, Stalin đã tiến
thêm một bước mới khi ông công khai thừa nhận chuyên chính vô sản là chuyên
chính của một đảng:
Ở Liên Xô, trên một đất nước mà nền
chuyên chính của giai cấp vô sản đang có hiệu lực, không có vấn đề quan trọng
nào về chính trị hay về tổ chức, được giải quyết bởi các xô-viết và các tổ chức
quần chúng khác của chúng ta, mà không có chỉ thị từ Đảng của chúng ta. Theo
nghĩa đó, chúng ta có thể nói rằng nền chuyên chính của giai cấp vô sản xét về
bản chất là nền chuyên chính của Đảng, với tư cách là lực lượng lãnh đạo giai cấp
vô sản một cách hiệu quả. (J. Stalin, Leninism, 1928, tập 1, tr. 23. Trích
theo: Harry W. Laidler, History of Socialism, sdd, tr. 428)
Song song với quá trình tập trung
hoá, chuyên chính hoá của quyền lực Nhà nước, là một quá trình tập trung quyền
lực bên trong nội bộ Đảng. Quá trình này đã diễn ra ngay từ khi Đảng bolshevik
nắm được chính quyền, nhưng khi Lenin còn sống, bên trong Đảng vẫn còn tồn tại
một tình trạng dân chủ nội bộ ở một mức độ nhất định. Tuy vẫn còn ảnh hưởng của
nếp sinh hoạt chặt chẽ theo kỷ luật thép và chỉ đạo từ bên trên của thời kỳ hoạt
động bí mật, sinh hoạt đảng đã trở thành công khai và các cuộc thảo luận diễn
ra cũng khá sôi nổi. Với uy tín cá nhân và kinh nghiệm dày dạn của mình, Lenin
đã cho phép các cuộc tranh luận công khai trong nội bộ Đảng, trong Bộ chính trị
và Ban chấp hành Trung ương, và thông thường thì ông có khả năng thuyết phục được
các đồng chí của mình.
Sau khi Lenin mất, Đảng cộng sản
bolshevik ngày càng đánh mất tính chất dân chủ trong nội bộ Đảng. Quá trình
quan liêu hoá bộ máy của Đảng đã giúp cho Stalin kiểm soát được vấn đề nhân sự,
và củng cố vị trí Tổng bí thư của ông. Bằng cách liên minh khi thì với cánh tả,
khi thì với cánh hữu trong Đảng, Stalin đã luôn luôn giành được đa số trong các
cơ quan lãnh đạo tối cao của Đảng, và cuối cùng đã loại bỏ được Trotsky, kẻ thù
nguy hiểm nhất của ông ta. Từ năm 1930 cho đến khi chết (đầu năm 1953) là giai
đoạn Stalin giành được quyền lực tuyệt đối, là người quyết định tất cả các vấn
đề quan trọng. Tất cả các phe phái đều bị tiêu diệt một cách tàn nhẫn. Tất cả
những người chống đối, dù là tiềm tàng, đều bị coi như những kẻ phản bội, bị
xét xử công khai hay bị thủ tiêu trong nhà tù. [3]
Quyền uy tuyệt đối đã biến Stalin
trở thành gần như một bạo chúa. Ông đã gây ra một tác động khủng bố về mặt tâm
lý chẳng những đối với nhân dân Liên Xô mà đối với cả các đồng chí của ông. Tại
Đại hội XX của Đảng cộng sản Liên Xô (năm 1956), Tổng bí thư Đảng lúc đó là N.
Khrushchev (người thường được coi là đại biểu cho chủ nghĩa xét lại hiện đại)
đã phát biểu như sau:
Chính Stalin đã phát minh ra khái
niệm “kẻ thù của nhân dân”. (…); danh từ đó mở ra khả năng sử dụng sự đàn áp khốc
liệt nhất… chống lại bất cứ ai tỏ ra, dù chỉ một chút, bất đồng ý kiến với
Stalin. (Trích theo: Isaac Deutscher, Sđd, tr. 680)
Sau khi Stalin mất đi, một quá
trình dân chủ hoá đã diễn ra trong nội bộ Đảng cộng sản Liên Xô. Những người cộng
sản Liên Xô tìm cách hạn chế sự chuyên quyền của một cá nhân, thay thế quyền lực
của một cá nhân bằng quyền lực của lãnh đạo tập thể, nhưng điều đó cũng không
thể làm cho Nhà nước Xô-viết trở thành một chế độ dân chủ.
Trước hết là mối quan hệ giữa Đảng
và Nhà nước. Theo hiến pháp (được thông qua vào năm 1936 và được sửa đổi vào
tháng 10 năm 1977) thì nền tảng chính trị của Liên bang Xô viết được tạo thành
bởi các Xô-viết Đại biểu Nhân dân (Soviets trong tiếng Nga có nghĩa là Hội đồng).
Các Xô-viết này hiện hữu ở tất cả các cấp của hệ thống hành chính, và xét về mặt
danh nghĩa thì quyền lực trên toàn thể Liên bang nằm trong tay Xô-viết tối cao
bao gồm hai viện: Xô-viết Liên bang và Xô-viết các dân tộc. Điều đáng nói là
trong khi bầu cử các Xô-viết, các cử tri hiếm khi được phép chọn lựa ứng cử
viên nào khác mà phải chọn những người đã được Đảng cộng sản giới thiệu. Mà Đảng
cộng sản Liên Xô (ĐCSLX), mãi cho đến khi có sự sửa đổi điều 6 của hiến pháp
(tháng 3 năm 1990), vẫn luôn là “lực lượng lãnh đạo và hướng dẫn của xã hội
xô-viết và là hạt nhân của hệ thống chính trị”. Do đó, tuy về mặt lý thuyết, việc
ban hành luật pháp đòi hỏi phải có sự phê chuẩn của cả hai viện của Xô-viết tối
cao, nhưng trong thực tế, mọi quyết định đều nằm trong tay một nhóm nhỏ của
Xô-viết tối cao được biết dưới cái tên là Đoàn chủ tịch (Presidium). Cơ quan
này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Bộ chính trị ĐCSLX, và mỗi quyết định có sẵn khi
đưa ra Xô-viết tối cao đương nhiên được sự nhất trí phê chuẩn của các đại biểu.
Vai trò của các Xô-viết trong các nước cộng hoà và các vùng lãnh thổ khác chỉ
là thực hiện các quyết định của Xô-viết tối cao Liên Xô. Cho nên có thể nói đây
là một hệ thống chính trị độc đoán và cực kỳ tập trung hoá. Như vậy, xét về
hình thức thì chế độ xô-viết vẫn có Nhà nước với hệ thống hoàn chỉnh từ trên xuống
dưới, nhưng quyền hành trong thực tế lại nằm trong tay ĐCSLX. [4]
Ở Liên Xô, hiến pháp tuy có nhưng
chỉ là hình thức trang trí bên ngoài, còn nghị quyết của Đảng mới là văn bản có
giá trị pháp lý cao nhất. Hiến pháp đặt dưới nghị quyết của Đảng, pháp luật đặt
dưới kỷ luật của Đảng, đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt hệ thống chính trị xô-viết,
một khuôn mẫu điển hình của chuyên chính vô sản.
Bây giờ xét đến mối quan hệ bên
trong ĐCSLX. Xét theo điều lệ, cơ quan lãnh đạo tối cao của Đảng là Đại hội Đảng,
nhưng Đại hội chỉ được triệu tập năm năm một lần và mỗi kỳ đại hội có đến hàng
ngàn đại biểu tham dự. Do đó Đại hội Đảng bầu ra các uỷ viên của Ban chấp hành
Trung ương (BCHTƯ), và cũng theo điều lệ, BCHTƯ này điều hành các công việc của
Đảng giữa hai kỳ đại hội. Do chỗ BCHTƯ cũng gồm đến hàng trăm người, lại chỉ họp
mỗi năm hai lần, quyền hành trong thực tế lọt vào tay hai tổ chức: Bộ chính trị
(Politburo) và Ban bí thư (Secretariat). Đây mới thực sự là những cơ quan nắm
quyền thực sự trong hệ thống chính trị xô-viết. Bộ chính trị, với khoảng 12-15
uỷ viên chính thức và 5-8 uỷ viên dự khuyết, do Ban chấp hành Trung ương bầu
ra, là cơ quan tối cao hoạch định chính sách của đất nước, và thực hiện quyền lực
trên mọi mặt của đời sống công cộng, kể cả đối nội và đối ngoại. Ban bí thư chịu
trách nhiệm về các công việc hành chính thường ngày của Đảng. Theo điều lệ,
thành viên của Bộ chính trị là do BCHTƯ bầu ra, nhưng trong thực tế, Bộ chính
trị là một cơ quan tự quyết định sự tồn tại và kế tục của chính mình, bởi vì chỉ
có Bộ chính trị mới có quyền quyết định thu nhận thành viên mới và trục xuất
thành viên cũ. [5]
Chế độ xô-viết về thực chất là một
chế độ thiểu số trị (oligarchy, oligarchie): quyền lực tập trung vào tay một cá
nhân hay ở một mức độ “dân chủ” hơn, được chia sẻ giữa một vài cá nhân có thế lực
trong Bộ chính trị. Sự tranh chấp quyền lực, nếu có, chỉ diễn ra ở hậu trường,
trong chốn cung đình, và thường mãi về sau mới được công chúng biết đến. Chế độ
độc đảng và nguyên tắc tập trung dân chủ đã tước mất của nhân dân Liên Xô cái
khả năng kiểm soát, khống chế bộ máy Nhà nước. Nhân dân không bao giờ làm chủ
được về mặt chính trị, không bao giờ được quyền chọn lựa những người lãnh đạo đất
nước. Có thể nói: quyền lực chính trị bị Đảng cộng sản tước đoạt từ tay nhân
dân và trong nội bộ Đảng, quyền lực chính trị lại bị một thiểu số tước đoạt từ
tay đại bộ phận đảng viên.
Đặc trưng thứ hai của chuyên
chính vô sản là độc quyền về tư tưởng.
Điều này bắt nguồn trước hết từ
tính chất, đặc điểm của chủ nghĩa Marx. Xuất thân là một nhà triết học, nhưng
ngay từ lúc trở thành người cộng sản, Marx đã muốn biến triết học thành “vũ khí
tư tưởng của giai cấp vô sản”. Ông coi giai cấp vô sản là giai cấp cách mạng nhất
của xã hội hiện đại, và tư tưởng của ông chính là tư tưởng của giai cấp vô sản,
nghĩa là tư tưởng tiên tiến nhất, cách mạng nhất. Trong thực tế ông luôn luôn
công kích một cách gay gắt tất cả các trường phái khác, không phải chỉ những
trường phái phi – xã hội chủ nghĩa mà cả những trường phái xã hội chủ nghĩa như
Lassalle, Proudhon, v.v…
Đến Lenin thì mức độ không khoan
nhượng càng tăng lên một bậc. Tự coi là người mác-xít chân chính nhất, trung
thành nhất với tư tưởng của Marx và Engels, Lenin đả kích gay gắt mọi lãnh tụ
tư tưởng khác của phong trào mác-xít đương thời, kể cả Kautsky và Plekhanov là
những người mà ông đã từng ngưỡng mộ. Ông gọi những người bất đồng tư tưởng
trong phong trào công nhân bằng những danh từ tệ hại nhất : tên phản bội, kẻ đầy
tớ của giai cấp tư sản, kẻ vô lại bán mình cho giai cấp tư sản, thậm chí: “con
chó”. [6] Thái
độ gay gắt đến mức thù địch của Lenin đối với các lãnh tụ của Quốc tế II có thể
giúp ta hiểu được phần nào thái độ độc đoán, kiêu ngạo của những người cộng sản
đối với những người cộng tác với họ, thậm chí đã từng đồng cam cộng khổ với họ,
nhưng không chịu phục tùng họ hoặc tỏ ra bất đồng ý kiến với họ.
Sau khi Lenin chết, Stalin đã biến
Lenin trở thành một vị thánh. Chủ nghĩa Marx trở thành hệ tư tưởng chính thống,
và để phân biệt chủ nghĩa Marx theo cách giải thích của Lenin với chủ nghĩa
Marx theo cách giải thích của Bernstein hay Kautsky, Stalin đã sáng tạo ra một
tên gọi mới: chủ nghĩa Marx-Lenin (marxism-leninism, marxisme-léninisme).
Với bộ máy nhà nước hùng mạnh
trong tay, Stalin đã biến chủ nghĩa Marx-Lenin thành một ý thức hệ mang tính hệ
thống, được đại chúng hoá đến mức có thể dùng làm kinh điển để dạy cho bất cứ
ai, từ học sinh, sinh viên cho đến cán bộ, đảng viên – kể cả những người có một
trình độ học vấn rất thấp. Triết học bị tiêu diệt. Cái gọi là triết học
Marx-Lenin thực tế chỉ còn là một mớ giáo điều được giải thích theo một cách
duy nhất, tương tự như Nho giáo ở Trung Quốc và Việt Nam thời trung cổ chỉ được
phép giải thích theo sách của Chu Hy.
Chủ nghĩa Marx-Lenin trở thành ý
thức hệ quốc gia, chiếm địa vị thống trị trong toàn bộ đời sống tư tưởng – văn
hoá của xã hội. Chẳng những chi phối toàn bộ các môn khoa học xã hội, nó còn thống
trị cả các hoạt động văn học – nghệ thuật, thậm chí còn chi phối cả các môn
khoa học tự nhiên nữa. Chủ nghĩa hình thức (formalism, formalisme) trong âm nhạc
đã từng bị kết án là tư sản và phản động. Trường phái trừu tượng trong hội hoạ
trong một thời gian dài bị coi như một biểu hiện của sự sa đoạ tư sản. Thậm chí
học thuyết di truyền của Mendel cũng bị kết án, dẫn đến sự chậm tiến của ngành
sinh học trong một thời gian dài.
Mục đích của độc quyền về tư tưởng
là để nhằm bảo vệ chuyên chính vô sản, bảo vệ độc quyền của Đảng trong lĩnh vực
chính trị, đúng như nhận xét của Raymond Aron:
Công thức chuyên chính vô sản được
dùng để biện minh cho độc quyền mà đảng tự giành cho mình; công thức dân chủ tập
trung được dùng để biện minh và nguỵ trang cho quyền lực toàn năng của một vài
người hay, đôi khi, cho một người duy nhất. (R. Aron, Sđd, tr.265).
Sự thống trị của một ý thức hệ
chính thống tương tự như một thứ quốc giáo đã khiến cho một số nhà nghiên cứu
muốn xếp nhà nước xô-viết vào loại chế độ thần quyền, thần học trị (theocracy,
théocratie). Giáo sư C. Northcote Parkinson, trong giáo trình Sự tiến hoá của
tư tưởng chính trị (The Evolution of Political Thought) đã viết:
Nếu những nét đặc trưng của chế độ
thần quyền là một giáo chủ, một huyền thoại, một cuốn Kinh thánh, một tầng lớp
tăng lữ, một địa điểm hành hương, một Toà án tôn giáo, thì chủ nghĩa cộng sản
phải được coi là một trong những tôn giáo trên thế giới. (C.Northcote
Parkinson,L’évolution de la pensée politique, bản dịch tiếng Pháp, Nxb
Gallimard, Collection Idées, Paris 1964, 2 tập)
Ông nhận xét về cuốn Tư bản, tác
phẩm quan trọng nhất và đồ sộ nhất của Marx như sau:
Chính vì thế cuốn Tư bản không thể
so sánh với bất cứ một tác phẩm khoa học nào khác. Người ta gọi nó là “Kinh
thánh của người lao động”, và điều đó đủ để nói lên bản chất của nó. Tốt hơn là
so sánh nó với Kinh Thánh, Kinh Coran, với Luận ngữ. Chỉ có những sách tôn giáo
mới không bao giờ lỗi thời. (Sđd, tr. 341)
Parkinson cũng nhận xét rằng người
ta có thể tìm thấy ở những người cộng sản sự thiếu khoan dung của Ki-tô giáo thời
nguyên thuỷ, sự cuồng tín của Hồi giáo buổi ban đầu (Sđd, tr. 342).
Mặc dù vậy, chúng ta cũng không
thể xếp chuyên chính vô sản vào loại chế độ thần quyền (thần học trị), bởi vì
giữa chủ nghĩa Marx và các tôn giáo có một số điểm khác biệt: các tôn giáo hướng
đến thế giới bên kia (au-delà) trong khi chủ nghĩa Marx hướng đến thế giới hiện
tồn (en-deçà); niềm tin tôn giáo không dựa vào lý trí, vào khoa học trong khi
chủ nghĩa Marx tự nhận mình là khoa học. Các tôn giáo chỉ sa lầy vào chính trị
khi có sự lẫn lộn giữa thần quyền và thế quyền; tách Giáo hội ra khỏi Nhà nước
là có thể trả tôn giáo trở về với bản chất đích thực của nó. Trong khi đó, Marx
chủ trương dấn thân, nhập thế, hứa hẹn vào một thiên đàng ngay giữa chốn trần
gian; cho nên khi thực tế không chứng minh được lý thuyết thì quần chúng sẽ dễ
dàng thức tỉnh và một khi đảng cộng sản tách ra khỏi quyền lực Nhà nước, sức mạnh
của chủ nghĩa Marx cũng nhanh chóng bị đánh mất. Mặc dù niềm tin cộng sản có những
điểm tương đồng với niềm tin tôn giáo nhưng về lâu về dài, quần chúng không thể
lấy niềm tin cộng sản để thay thế cho niềm tin tôn giáo. Về điểm này, chủ nghĩa
Marx gần gủi với Nho giáo hơn là các tôn giáo trên thế giới. Nhưng chủ nghĩa
Marx cũng khác với Nho giáo ở chỗ Khổng Tử kêu gọi lòng nhân ái, mặc dù lòng
nhân ái của ông bị các vua chúa lợi dụng; trong khi Marx lại khơi dậy lòng hận
thù và chấp nhận bạo lực như một đòn bẩy để thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Một cách chính xác hơn, có lẽ
chúng ta nên coi chuyên chính vô sản như một chế độ tư tưởng trị, ý thức hệ trị
(idéocratie), tức là một chế độ dựa trên một ý thức hệ và muốn làm cho xã hội
phù hợp với ý thức hệ đó. (Xem: R.Aron, Sđđ, tr. 243)
Đặc điểm thứ ba của chuyên chính
vô sản là độc quyền về kinh tế.
Kinh nghiệm của cách mạng vô sản
Nga và các cuộc cách mạng theo khuôn mẫu của Lenin đã cho thấy sau khi xoá bỏ
chế độ tư hữu, những người bolshevik đã không thể thiết lập chế độ công hữu xã
hội chủ nghĩa hay cộng sản chủ nghĩa, mà chỉ có thể thiết lập chế độ sở hữu Nhà
nước nhân danh lý tưởng cộng sản. Sự hình thành một khu vực kinh tế quốc doanh
rộng lớn sau cách mạng vô sản đã tạo cho chuyên chính vô sản một chỗ dựa vô
cùng to lớn về mặt kinh tế. Nói cách khác, độc quyền về kinh tế là điều kiện để
củng cố độc quyền về chính trị.
Năm 1957, một nhà lý luận cộng sản
ly khai người Nam Tư tên là Milovan Djilas đã cho công bố một tác phẩm nhan đề
Giai cấp mới, trong đó ông cho rằng ở Liên Xô và các nước cộng sản khác, sau
khi giai cấp tư sản và các giai cấp có nguồn gốc cũ bị tiêu diệt thì một giai cấp
mới được hình thành: đó là giai cấp thư lại (bureaucracy, bureaucratie) [7] ,
hay nói chính xác hơn là giai cấp thư lại chính trị (political bureaucracy). Gốc
rễ của giai cấp này bắt đầu từ một đảng chính trị đặc biệt: đảng kiểu
bolshevik. Nói chính xác hơn, những người tiên khởi của giai cấp này xuất phát
từ một giai tầng đặc biệt trong lòng đảng chính trị kiểu bolshevik, đó là các nhà
cách mạng chuyên nghiệp. Giai cấp này, theo Djilas, là những ông chủ mới và những
kẻ bóc lột mới trong xã hội cộng sản:
Là đảng viên của Đảng cộng sản
trước Cách mạng có nghĩa là sự hy sinh. Trở thành một nhà cách mạng chuyên nghiệp
là một trong những vinh dự cao nhất. Ngày nay đảng đã củng cố quyền lực của
mình, là đảng viên có nghĩa là thuộc về một giai cấp có đặc quyền. Và ở cốt lõi
của của đảng là những kẻ bóc lột và những ông chủ nắm mọi quyền lực. (Milovan
Djilas, The New Class, trích từ: Essential Works of Marxism, edited by Arthur
P. Mendel, Bantam Books, Bantam Matrix Edition, New York 1965, tr. 327)
Thực ra, nếu xem xét theo đúng định
nghĩa của Marx về giai cấp thì giai cấp thư lại mà Djilas nói đến không phải là
một giai cấp đúng nghĩa, bởi vì tiêu chuẩn để định nghĩa giai cấp này là tiêu
chuẩn chính trị chứ không phải tiêu chuẩn kinh tế. Trong xã hội cộng sản, trước
hết phải là đảng viên hay cán bộ, người ta mới được hưởng các đặc quyền về kinh
tế; trong trường hợp mất chức hoặc bị khai trừ Đảng, thì lập tức các đặc quyền
kinh tế cũng bị mất theo. Có thể nói đây là mộtđẳng cấp hơn là một giai cấp. Đẳng
cấp này rất giống với đẳng cấp quan lại trong các xã hội Á Đông theo Nho giáo
(Trung Quốc, Việt Nam). Nhưng khác với đẳng cấp quan lại, đẳng cấp mới này (thường
được gọi là nomenklatura), ngoài các quan chức nhà nước còn bao gồm các nhà quản
lý kinh tế (managers) và các nhà kỹ thuật (technicians). Tiêu chuẩn để gia nhập
đẳng cấp này trước tiên và chủ yếu phải là lòng trung thành tuyệt đối đối với Đảng
cộng sản – dù là đảng viên hay là người ngoài đảng. Tiêu chuẩn này tương tự như
tiêu chuẩn trung quân của đẳng cấp quý tộc – quan lại ở các nước Á Đông theo
Nho giáo ngày xưa.
Cũng cần nói thêm là chế độ sở hữu
nhà nước không phải là điều mới lạ trong lịch sử. Năm 1957, một nhà sử học-xã hội
học người Mỹ gốc Đức tên là Karl Wittfogel đã xuất bản một tác phẩm nhan đề Chủ
nghĩa chuyên chế phương Đông (Oriental Despotism), với nội dung như sau:
Trong cuốn Góp phần phê phán khoa
kinh tế – chính trị học, ngoài những phương thức sản xuất cổ đại, phong kiến,
tư bản chủ nghĩa, Marx còn thừa nhận một phương thức sản xuất khác mà ông gọi
là phương thức sản xuất châu Á. Phương thức này được Marx (và cả Lenin nữa)
đánh giá là hoàn toàn khác với tất cả các phương thức mà người ta có thể tìm thấy
trong các xã hội phương Tây.
Trong phương thức sản xuất châu
Á, Nhà nước nuốt chửng toàn bộ xã hội, hay ít nhất cũng mạnh hơn xã hội, bởi vì
những người quản lý lao động tập thể là những công chức. Nông nghiệp đòi hỏi việc
sử dụng thường xuyên nước của các dòng sông. Chính vì thế, ở Ai Cập và Trung Quốc,
đã hình thành một chế độ kinh tế và xã hội trong đó Nhà nước nếu không phải là
chủ sở hữu của các phương tiện sản xuất thì ít nhất cũng là người tổ chức lao động
tập thể. Những người được hưởng đặc quyền là những người bằng cách này hay cách
khác gắn bó với Nhà nước hay đại diện cho Nhà nước. Phương thức sản xuất châu Á
không bao gồm những giai cấp theo nghĩa phương tây của danh từ, mà bao gồm một
sự phân chia đẳng cấp mang tính nhà nước và quan liêu. Những đế quốc lớn ở châu
Á và vùng Cận Đông, được xây dựng trên phương thức sản xuất châu Á, là những đế
quốc đặc biệt bền vững. Kết cấu xã hội vừa đơn giản vừa vững bền. Nhà nước chiếm
lấy toàn bộ các chức năng lãnh đạo, điều hành của xã hội bằng cách loại trừ tất
cả các trung tâm quyền lực độc lập. Khi việc quản lý lao động thuộc về Nhà nước
và Nhà nước là duy nhất, thì xã hội vừa có tính đồng nhất vừa có tính đẳng cấp.
Các tập thể, cộng đoàn trong xã hội tuy khác nhau về lối sống, về phong cách sống,
nhưng không có cộng đoàn hay tập thể nào có quyền lực riêng, bởi vì tất cả đều
hội nhập vào cơ cấu của Nhà nước.
Những đặc điểm của các đế chế
quan liêu ấy cũng có thể được tìm thấy trong các xã hội được tổ chức theo kiểu
mẫu của chế độ xô-viết: Nhà nước độc quyền quản lý lao động tập thể, bộ máy thư
lại Nhà nước, giai cấp đặc quyền đặc lợi, những đối kháng không có đấu tranh
giai cấp theo nghĩa của phương Tây. [8]
Mặc dầu quan niệm về nền văn minh
thuỷ lực (hydraulic civilization) của Wittfogel bị nhiều nhà sử học phê phán vì
ông coi các công trình thuỷ lợi như nguyên nhân hàng đầu hình thành nên các thiết
chế chính trị mang tính cưỡng chế [9] ,
nhưng những trình bày của ông về chế độ chuyên chế phương Đông giúp chúng ta thấy
rõ sự xuất hiện của chế độ sở hữu Nhà nước trong lịch sử, và tác động to lớn của
nó đối với các chế độ chính trị chuyên chế kiểu phương Đông.
Nước Nga dưới thời Sa hoàng là một
quốc gia nửa – châu Á, chính Lenin cũng thừa nhận như vậy. Do đó, sau Cách mạng
tháng Mười, khi những người bolshevik xoá bỏ chế độ tư hữu thì chế độ sở hữu
Nhà nước kiểu châu Á lại tái sinh, với quy mô lớn hơn, và tính chất hiện đại
hơn. Độc quyền về kinh tế không hề tạo điều kiện cho một chế độ chính trị dân
chủ mà chỉ tạo điều kiện cho một chế độ Nhà nước toàn trị: Nhà nước nuốt chửng
toàn bộ xã hội công dân thay vì xã hội công dân nuốt chửng toàn bộ Nhà nước như
Marx đã tiên đoán.
Thực tế của xã hội xô-viết và tất
cả các nước được tổ chức theo mô hình đó đã chứng tỏ rằng một chế độ độc quyền
về kinh tế, trong đó Nhà nước nắm hầu hết các phương tiện sản xuất chủ yếu,
không thể tạo điều kiện cho người dân làm chủ xã hội. Về điểm này thì Proudhon
có lý hơn Marx. Và điều này cũng lý giải được tình hình tại sao đến cuối thể kỷ
XX – đầu thế kỷ XXI, một số đảng cộng sản cầm quyền (như ở Trung Quốc, Việt
Nam) đã buộc phải chấp nhận kinh tế thị trường nhưng vẫn cố ôm khư khư một khu
vực kinh tế quốc doanh rộng lớn (nhưng kém hiệu quả) để củng cố vai trò độc tôn
của mình trong lĩnh vực chính trị.
*
Chuyên chính vô sản, qua các đặc
điểm vừa nêu trên, không thể là một chế độ dân chủ, mà chỉ là một chế độ thiểu
số trị (oligarchy, oligarchie), trong đó quyền lực rơi vào tay một đẳng cấp có
đặc quyền trong xã hội (các đảng viên cộng sản); và trong nội bộ đẳng cấp này,
quyền lực lại được tập trung vào tay một vài người có thế lực trong Bộ chính trị,
thậm chí rơi vào tay một cá nhân.
Nguyên nhân của tình hình này bắt
nguồn từ chỗ Marx bác bỏ những nguyên tắc của chế độ đại nghị. Chính vì bác bỏ
chế độ đại nghị cho nên chuyên chính vô sản thiếu hẳn một cơ chế hãm có khả
năng ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực. Điều đáng lưu ý là những giải
pháp mang tính dân chủ mà Marx và Engels đã nêu lên qua kinh nghiệm của Công xã
Paris đều không được thực hiện, hay nói đúng hơn là không thể thực hiện được:
Trước hết là việc bầu và bãi miễn
các thành viên của Nhà nước. Do chỗ Đảng cộng sản độc chiếm quyền lực chính trị
cho nên việc bầu cử trong các nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình của Lenin chỉ
là một sinh hoạt mang tính hình thức nhằm hợp pháp hoá việc chọn lựa nhân sự của
Đảng: dân được quyền bầu cử, nhưng danh sách ứng cử viên lại do Đảng chọn; dân
chỉ được quyền chọn lựa trong số những người Đảng đã chọn trước. Những người bất
đồng chính kiến hay không được Đảng tin cậy đều bị gạt ra khỏi danh sách trước
đó. Việc bầu các chức danh chủ chốt lại càng chặt chẽ hơn, đến mức các chức vụ
chủ chốt của bộ máy Nhà nước hầu như được qưyết định trước trong các cuộc họp của
Đảng.
Với cung cách ứng cử, bầu cử như
thế thì người dân hoàn toàn không có quyền bầu và bãi miễn bất cứ một ai. “Đảng
cử, dân bầu”. Nói cách khác bầu cử chỉ là một hình thức xem xét mức độ tín nhiệm
để bảo đảm cho ý Đảng hợp với lòng dân. Trong trường hợp lòng dân và ý Đảng
không phù hợp thì người dân cũng không biết cách nào hơn là trông chờ vào sự
sáng suốt của Đảng: sự trông chờ này có cái gì tương tự như sự trông chờ của
dân đen vào sự sáng suốt của thiên tử và các cận thần trong các xã hội Á Đông
chịu ảnh hưởng của Nho giáo.
Mặt khác, trong khi Marx và
Engels ca ngợi Công xã Paris vì đã công khai hoá mọi hoạt động của mình, thừa
nhận những khuyết điểm của mình thì chuyên chính vô sản trong thực tế luôn luôn
che giấu các hoạt động của mình, nhất là che giấu khuyết điểm – kể cả những sai
lầm tệ hại nhất. Câu chuyện về Di chúc của Lenin là một ví dụ điển hình cho
tính chất che giấu, bí mật trong các hoạt động của Đảng cộng sản LiênXô.
Văn kiện này có tên chính thức là
Thư gửi Đại hội. Lá thư này gồm có hai phần: phần đầu được viết trong thời gian
từ 23 đến 26.12.1922, phần thứ hai (bổ sung) được viết vào ngày 4.1.1923, với mục
đích dành để gửi cho một Đại hội thường kỳ của ĐCS (b) Nga. Do tình trạng sức
khoẻ kém, Lenin không thể tự viết mà phải đọc cho thư ký ghi. Lá thư được chép
thành vài bản, được niêm phong cẩn thận. Chỉ có Lenin mới được mở niêm phong và
trong trường hợp ông chết, thư phải do chính tay Krupskaia (vợ ông) mở. Mặc dù
lá thư được viết trước Đại hội lần thứ XII (tháng 4 năm 1923), nhưng lá thư vẫn
chưa được công bố tại Đại hội này. Mãi đến tháng 5 năm 1924, bốn tháng sau khi
Lenin mất và vài ngày trước khi khai mạc Đại hội lần thứ XIII, Krupskaia mới
chuyển lá thư đến Ban chấp hành trung ương và nói rõ yêu cầu của Lenin là lá
thư phải được công bố trước Đại hội. Nhưng BCH TƯ (lúc này đã bị Stalin khống
chế ) quyết định chỉ đọc lá thư tại từng đoàn đại biểu riêng lẻ thay vì đọc trước
Đại hội, đồng thời cấm sao chép, công bố hay trích dẫn. Do sự ém nhẹm đó, bức
thư đã không được công chúng ở Liên Xô biết đến; mặc dù ở phương tây, Max
Eastman đã công bố vài đoạn của lá thư trong tác phẩm Từ khi Lenin chết vào năm
1925, và báoThe New York Times đã công bố toàn văn lá thư vào năm 1926. Ở Liên
Xô, mãi đến Đại hội XX của ĐCSLX (năm 1956), người ta mới biết được lá thư đó.
Tại Đại hội, Khrushchev đã trích đọc một số đoạn trong lá thư để làm căn cứ cho
việc tố giác tội ác của Stalin; và sau Đại hội, toàn văn di chúc của Lenin được
công bố rộng rãi cho công chúng biết [10] .
Che giấu sự thật gần như trở
thành đặc điểm chung cho tất cả các chế độ học tập theo mô hình chuyên chính vô
sản của Lenin. “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; trong bốn vế ấy, chỉ
có vế thứ ba (dân làm) là được thực hiện, còn ba vế kia chỉ là khẩu hiệu suông,
không có thực chất.
Marx và Engels mong ước sau khi
giai cấp vô sản nắm chính quyền, sẽ khởi đầu một quá trình xã hội hoá Nhà nước,
đến mức xã hội công dân nuốt mất Nhà nước. Trong thực tế, đã diễn ra một quá
trình nhà-nước-hoá xã hội công dân, đến mức Nhà nước nuốt chửng toàn bộ xã hội.
Sở dĩ có quá trình đảo ngược ấy là do sự lãnh đạo của Đảng cộng sản được tổ chức
theo khuôn mẫu của Đảng bolshevik.
Chú thích:
[1]Raymond
Aron, Démocratie et totalitarisme, sđd, tr. 287-288.
[2]Oligarchy, oligarchie: Danh từ có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp oligo (số ít) và arkhê (quyền chỉ huy). Dùng để chỉ một chế độ chính trị trong đó quyền lực nằm trong tay một vài người hay một vài gia đình (Petit Larousse). Đào Duy Anh dịch là quả đầu chính trị (Từ điển Hán Việt), Thanh Nghị dịch là quả đầu chính thể (Pháp Việt tân từ điển minh hoạ). Quả trong tiếng Hán-Việt có nghĩa là ít. Cách dịch này chính xác hơn là cách dịch hiện nay : chính thể đầu sỏ, chế độ đầu sỏ.
[3]Raymond Aron, Sđd, tr. 258-264.
[4]“Union of Soviet Socialist Republics”, Encyclopædia Britannica 2000, 1994-2000.
[5]“Communist Party of the Soviet Union”, Encyclopædia Britannica 2000, 1994-2000.
[6]“So với tên phản bội Kautxky, thì tên phản bội Bernstein chẳng qua chỉ là một con chó con mà thôi” (Lenin, Cách mạng vô sản và tên phản bội Cau-xky, sđd, tr. 27).
[7]Còn được dịch là giai cấp quan liêu.
[8]Raymond Aron, Sđd, tr. 312-315.
[9]Xem: “Hydraulic civilization”, Encyclopædia Britannica 2000, 1994-2000.
[10]“Lenin’s Testament”, Encyclopædia Britannica 2000, 1994-2000.
[2]Oligarchy, oligarchie: Danh từ có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp oligo (số ít) và arkhê (quyền chỉ huy). Dùng để chỉ một chế độ chính trị trong đó quyền lực nằm trong tay một vài người hay một vài gia đình (Petit Larousse). Đào Duy Anh dịch là quả đầu chính trị (Từ điển Hán Việt), Thanh Nghị dịch là quả đầu chính thể (Pháp Việt tân từ điển minh hoạ). Quả trong tiếng Hán-Việt có nghĩa là ít. Cách dịch này chính xác hơn là cách dịch hiện nay : chính thể đầu sỏ, chế độ đầu sỏ.
[3]Raymond Aron, Sđd, tr. 258-264.
[4]“Union of Soviet Socialist Republics”, Encyclopædia Britannica 2000, 1994-2000.
[5]“Communist Party of the Soviet Union”, Encyclopædia Britannica 2000, 1994-2000.
[6]“So với tên phản bội Kautxky, thì tên phản bội Bernstein chẳng qua chỉ là một con chó con mà thôi” (Lenin, Cách mạng vô sản và tên phản bội Cau-xky, sđd, tr. 27).
[7]Còn được dịch là giai cấp quan liêu.
[8]Raymond Aron, Sđd, tr. 312-315.
[9]Xem: “Hydraulic civilization”, Encyclopædia Britannica 2000, 1994-2000.
[10]“Lenin’s Testament”, Encyclopædia Britannica 2000, 1994-2000.
Nguồn: http://hasiphu.com/nhomdalat_MTL04_10.html