Bo LI
Đỗ Như Hằng chuyển ngữ
Đỗ Như Hằng chuyển ngữ
Theo Giáo Sư
Robert Dahl, một trong những nhà lý luận về dân chủ nổi bật nhất của thời nay,
xã hội dân chủ hiện đại khởi đầu từ bốn nguồn gốc: xã hội dân chủ trực tiếp thời
Cổ Hy Lạp, chủ nghĩa cộng hòa giữa các thành quốc La Mã thời Trung Cổ và Phục
Hưng, lý thuyết và sự áp dụng thực tiễn của chính quyền đại nghị, và khái niệm
bình đẳng chính trị. Tiểu luận này xin giới thiệu đến độc giả vài khái niệm căn
bản và các thể chế của xã hội dân chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đó là
xã hội dân chủ thời Cổ Hy Lạp. Qua bài viết, tôi cũng mong đưa ra nhận xét phê
bình mô hình xã hội dân chủ cổ điển.
Trong suốt
chiều dài lịch sử của nhân loại, sự hình thành của chế độ dân chủ thật là hiếm
hoi, và các nhà bình luận trước đây thảy đều chỉ trích lý thuyết và sự thực thi
của xã hội dân chủ. Thật vậy, mãi đến nửa thế kỷ hai mươi mới có sự nhất trí đồng
lòng về sức thu hút của quan niệm và thể chế xã hội dân chủ. Nền dân chủ Cổ Hy
Lạp là trường hợp ngoại lệ của sự khan hiếm xã hội dân chủ trong lịch sử nhân
loại.
Vào thế kỷ
thứ năm trước công nguyên, biến đổi chính trị vĩ đại xảy ra tại các thành quốc
Hy Lạp. Sự thay đổi ấy là một biến đổi dựa trên dân chủ, và Giáo Sư Dahl ví tầm
quan trọng của sự kiện này với "sự phát minh ra vòng bánh xe hoặc cuộc
khám phá ra Tân Thế Giới." Thời ấy Hy Lạp không chỉ là một nước, mà là kết
hợp giữa một số thành quốc độc lập (tiếng Hy Lạp gọi là "polis").
Athens được mô tả là thành quốc với xã hội dân chủ sáng tạo và tinh vi nhất.
Lý tưởng và
mục tiêu chính trị của nền dân chủ Athen cổ điển là gì? Trong cuốn sách
"Chính Trị Luận" nổi tiếng của ông (sáng tác vào khoảng 335 và 323
trước công nguyên), Aristotle phân tích rằng nguyên tắc cơ bản của một xã hội
dân chủ cổ điển là quyền tự do. Theo Aristote, quyền tự do bao gồm hai thứ: (1)
"cai trị và phục tùng" và (2) "sống theo mình chọn lựa."
Theo như thế, quyền tự do và sự bình đẳng kết nối chặt chẽ. Trên thực tế, yếu tố
thứ nhất của quyền tự do, "cai trị và phục tùng," dựa trên khái niệm
căn bản về sự bình đẳng, cái Aristotle gọi là "bình đẳng theo con số"
(đối lại với "bình đẳng theo giá trị"). "Bình đẳng theo con số"
có nghĩa là quyền cai trị được phân chia đồng đều giữa tất cả mọi người, bất kể
khả năng, giá trị hay sự giàu có của mỗi cá nhân. "Hiểu theo trên, thì sự
bình đẳng là nền móng thiết thực và cũng là nền móng đạo đức của quyền tự
do" (David Held).
Tuy nhiên,
theo định nghĩa của Aristotle về quyền tự do, yếu tố thứ nhất tiềm tàng mâu thuẫn
với yếu tố thứ hai. Sự tôn trọng triệt để chủ nghĩa bình đẳng chính trị có thể
gây hại đến quyền tự do của cá nhân để có thể "sống theo mình chọn lựa."
Người theo chế độ dân chủ cổ điển tin rằng phải có giới hạn trong sự chọn lựa của
một cá nhân, sao cho sự sử dụng quyền tự do của người này không gây trở ngại một
cách phi lý đến quyền tự do của những người khác. Miễn sao mỗi công dân có cơ hội
"cai trị và phục tùng," sự rủi ro bởi bình đẳng chính trị sẽ được giảm
bớt và cả hai yếu tố của quyền tự do sẽ được thực hiện. "Và thế, theo suy
nghĩ của Aristote, thể chế dân chủ cổ điển đòi hỏi quyền tự do và quyền tự do
đòi hỏi sự hoàn toàn bình đẳng chính trị - một vấn đề khiến ông ta biểu lộ nhiều
dè dặt rất đáng quan tâm về chủ nghĩa dân chủ" (Held). Sau đây, chúng ta sẽ
bàn luận sâu hơn về hiểm nguy khi có sự bình đẳng ở tầm quá khích.
Những nhà
dân chủ thời Athens thấu hiểu sâu sắc giá trị của công lý, luật pháp, và quá
trình pháp lý. "Người dân Athens không mường tượng mình là một cá thể hoàn
toàn không có ràng buộc, thế nhưng họ phân biệt rất rõ ràng lằn ranh giữa cái
giới hạn bởi sự tùy tiện theo ý muốn của một người dân khác và cái giới hạn bởi
đạo luật vốn được công nhận là đúng lý và do đó được dân chúng tự giác tuân thủ"
(Sabine). "Nếu luật pháp được cấu tạo đúng cách trong khuôn khổ đời sống
người dân thường, thì sẽ khiến người dân tuân theo luật pháp một cách chính
đáng" (Held).
Đối nghịch với
các quan điểm về tự do sau này, "Đặc điểm của nền dân chủ thời Athens là
lòng tin của quần chúng vào nguyên tắc của đức tính công dân: đó là sự cống hiến
cho thành quốc cộng hòa và sự lệ thuộc của đời sống cá nhân vào các việc hành
chính và ích lợi chung của mọi người." Trong xã hội đó, không có sự phân
biệt về tự do giữa nhà nước và xã hội, giữa quan chức chuyên môn và công dân,
hoặc giữa "nhân dân" và chính phủ. "Trong cộng đồng này, công
dân có quyền và có bổn phận; nhưng các quyền ấy không thuộc về riêng một cá
nhân nào, và những bổn phận đó không bị ép buộc từ một nhà nước chú tâm vào việc
duy trì cơ cấu nhằm bảo vệ mục đích cá nhân của người dân. Đúng hơn ... cả quyền
và bổn phận đều thuộc về của chung" (Held). Khác với thời nay với sự phân
tách giữa phạm vi công và tư, trong thời Athens người dân cho rằng được sống
trong một "thành quốc chính trị" là điều đáng khát khao nhất, để từng
người dân như thể một động vật chính trị đạt được mong ước khi tham gia chính
trị và bàn thảo trong diễn đàn công. "Nguyên tắc về chính quyền là nguyên
tắc về lối sống: tham dự trực tiếp." (Held). Những người cai trị cũng sẽ
trờ thành người bị trị. Quá trình tự trị một cách trực tiếp và tích cực là lời
tuyên ước cơ bản của công dân thời Athens.
Những lý tưởng
chính trị thời Athens - như sự bình đẳng giữa mọi công dân, sự tự do, và sự tôn
trọng luật pháp và công lý - có ảnh hưởng rất lớn đối với nền tư tưởng chính trị
Tây phương, "tuy nhiên có vài tư tưởng chủ yếu không thể trực tiếp trích
nguồn từ thời Athens, chẳng hạn như quan niệm tự do hiện đại rằng con người là
những ‘cá nhân' có ‘quyền cá nhân'" (Held).
Nắm bắt được
các lý tưởng chính trị nêu trên, giờ đây chúng ta hãy xét đến lãnh vực cơ chế của
nền dân chủ cổ điển. Theo Giáo Sư David Held, nền dân chủ Athens có những cơ chế
sau đây. Trước tiên, quốc hội của công dân có quyền tối cao, là quyền lực lớn
nhất để tiến hành lập pháp và hành pháp. Quốc hội thành lập từ toàn thể nhân
dân, bao gồm mỗi và mọi người dân của Athens. Quốc hội họp hơn 40 lần một năm,
với số đại biểu quy định là 6000 công dân. Theo khái niệm Athens, "làm
công dân" đòi hỏi gánh phần trong nhiệm vụ lập pháp và hành pháp, trực tiếp
tham gia vào việc hành chính. Vì thế nền dân chủ Hy Lạp cổ điển được gọi là
"dân chủ trực tiếp."
Cách lý tưởng
để tiến tới quyết định trong quốc hội là quyết định dựa trên sự đồng thuận. Chỉ
khi nào có vấn đề không thể thông qua thì mới bỏ phiếu biểu quyết. "Biểu
quyết vừa là cách để nêu rõ các quyết định khác nhau, vừa là phương thức có
tính chất thủ tục nhằm hợp pháp hóa những quyết định khi có những ý tưởng đối
nghịch" (Held).
Lời trích dẫn
sau đây của Giáo Sư Held mô tả nền sinh hoạt của xã hội dân chủ Athens một cách
chi tiết hơn: "Quốc hội quá đông để có thể chuẩn bị chương trình hội họp,
phác thảo dự luật, và đón nhận những đề xuất và sáng kiến mới về chính sách. Một
hội đồng gồm 500 người đảm nhận trách nhiệm tổ chức và đề nghị các quyết định
công; hội đồng này có sự hỗ trợ của một ủy ban được tinh giản gồm 50 người (được
bổ nhiệm trong một tháng), dẫn đầu là chủ tịch (chủ tịch chỉ được giữ chức vụ
trong một ngày). Tổ chức của tòa án tương tự Quốc Hội. Các sinh hoạt hành pháp
của thành quốc được thực hiện bởi các viên chức được gọi là ‘quan tòa,' tuy
nhiên quyền lực của ‘quan tòa' được khuếch tán vì chức ‘quan tòa' được giao phó
cho từng nhóm gồm 10 người. Gần như mọi ‘quan tòa' đều được bầu cử với nhiệm kỳ
một năm (thường với hạn chế chỉ hai nhiệm kỳ trong đời). Hơn thế, để tránh nguy
cơ phát sinh sự độc tài hoặc sự móc nối qua bầu cử trực tiếp, một số phương
pháp bầu cử được áp dụng nhằm duy trì sự chịu trách nhiệm của các chính khách
và nhà nước một cách đồng đều hơn, chẳng hạn thay phiên chức vụ, bổ nhiệm theo
bốc thăm hoặc bỏ phiếu trực tiếp." (Các Mô Hình Dân Chủ, ấn bản hai,
Chương1, trang 21-3).
Trong thành
quốc Athens, phạm vi quyền lực của nhà nước bao gồm tất cả mọi vấn đề chung của
thành phố. Không có phân biệt quyền lợi giữa người dân thường và các công chức.
Ngoại trừ các chức vụ liên quan đến quân sự, không ai được đảm nhiệm cùng một
chức vụ hơn hai lần, và nhiệm kỳ của tất cả mọi chức vụ đều ngắn hạn. Công chức
thời Athens được trả lương.
Để cho chế độ
dân chủ Hy-Lạp cổ điển hoạt động đúng đắn, cần có một số điều kiện quan trọng.
Robert Dahl tóm tắt sáu điều căn bản trong trật tự chế độ dân chủ Hy Lạp như
sau. Thứ nhất, "công dân phải có sự hòa hợp tương đối đủ về quyền lợi để họ
có thể cùng chia sẻ và hành động nhằm đạt lợi ích chung, một lợi ích không đối
nghịch với mục tiêu và quyền lợi của cá nhân." Thứ nhì, cũng phải có sự
tương đồng trong một số lãnh vực mà nếu có sự chênh lệch cao thì có thể gây nên
bất ổn xã hội và mâu thuẫn sâu sắc về lợi ích chung (chẳng hạn mức giàu có và
thì giờ rảnh rỗi). Thứ ba, "mỗi cộng đồng phải khá nhỏ, tốt nhất là nhỏ
hơn cả dân số ba bốn chục ngàn người của thành quốc Athens." Thứ tư, dân
chúng phải có quyền tụ họp và quyết định trực tiếp các vấn đề liên quan đến lập
pháp và đưa ra những phán quyết về tư pháp. "Điểu căn bản này thấm sâu
trong ý tưởng của người dân Hy Lạp, do đó họ khó mà mường tượng ra một chính
quyền đại nghị, và càng không thể chấp nhận rằng nó là một thay thế hợp lý cho
thể chế dân chủ trực tiếp." Thứ năm, sự tự trị không chỉ đòi hỏi người dân
dự họp quốc hội, mà còn buộc phải tham gia vào sự điều hành thành quốc. Đa số
dân thành Athens làm việc trong chính quyền ít nhất một lần trong đời của mình.
Thứ sáu, thành quốc vẫn nên "hoàn toàn tự trị." Không thể để các nhóm
và phe phái tiếm quyền tối cao của Quốc Hội. (Phê Bình về chế độ dân chủ,
chương 1, trg. 18-19.)
Còn có thêm
một yếu tố để giúp xã hội dân chủ trực tiếp thời Athens điều hành một cách tốt
đẹp: muốn có thể tham gia một cách tích cực vào quá trình phán quyết các vấn đề
thuộc công chúng, mỗi "ông" (chỉ có phái nam được quyền bỏ phiếu) phải
có được đủ thì giờ rảnh rỗi để đi dự các buổi họp Quốc Hội, để tham gia những
buổi bàn luận kéo dài, và để làm việc hành chánh. Trong thời Athens, yếu tố này
hiện hữu là nhờ có nền kinh tế nô lệ và đội ngũ nội trợ của các bà, nô lệ làm
việc thay thế "các ông công dân" (một phần tử đàn ông không thuộc
hàng nô lệ) và đàn bà lo việc trong nhà, do đó nhóm đàn ông tự do mới có thì giờ
dành riêng cho việc công. Điều mỉa mai là một phần tử trong xã hội Athens có được
đặc quyền tự do dân chủ chính là vì có những thành phần không được hưởng tự do
dân chủ trong xã hội nói chung: sự tồn tại của nô lệ và việc loại trừ phụ nữ ra
khỏi sinh hoạt chính trị là điều kiện cần cho sự tham gia trực tiếp vào việc tự
chủ của các những người có tư cách "công dân."
Một vấn nạn
thâm căn của xã hội dân chủ mà thiếu nền tảng hiến pháp thông thường là khi nhiệt
tình thiếu lý trí của dân chúng, khi bị những kẻ mị dân hay bạo quyền chuyên chế
khuấy động, dễ mang đến nhiều hậu quả tàn khốc. Vấn đề trên được phản ánh rõ rệt
trong xã hội dân chủ Hy Lạp cổ điển. Trong thời Athens cổ, không có khuôn khổ tổ
chức hay hiến pháp nào đặt giới hạn lên tính phi lý, tính kiêu căng, tình cảm,
sự đam mê, v.v. của người dân. Quốc Hội của dân thường nằm dưới sự điểu khiển của
một số gia đình máu mặt và có những lúc Quốc Hội thể hiện nhiều vấn đề có liên
kết với cảm tính phổ biến không bị gò bó: sự phi lý, sự chuyên chế của đam mê
không kiềm chế và sự chuyên chế của đa số. Một trong những thí dụ nổi bật của sự
chuyên chế trong dân chủ, hành động bốc đồng và sự bất công là câu chuyện về
sáu ông tướng người Athens bị Quốc Hội xử tội chết vào năm 406 T.C.. Vào thời
gian đó, thành Athens đạt chiến thắng vẻ vang trong một trận hải chiến, tuy rất
nhiều chiến sĩ đã phải hy sinh. Tám tướng lãnh của trận đánh (có hai người
không trở về Hy Lạp sau trận chiến) bị buộc tội đã bỏ lính tráng lại trên các
chiếc thuyển đang chìm để mặc họ chết đuối một cách không cần thiết. Nhiều người
chuyên quyền khuấy động cảm xúc dân chúng, khiến quốc hội vi phạm một vài thủ tục
của một phiên tòa công bằng. Sau cùng, sáu vị tướng bị quốc hội xử tử hình,
trong khi họ không được xét xử trong một phiên tòa chính thức công bằng và cũng
không có cơ hội để biện hộ hay bào chữa. Tuy nhiên, "không lâu sau đó, dân
chúng thành Athens hối lỗi và bỏ phiếu đồng ý quy kết những lời tố cáo đầu tiên
vào nhóm chuyên chế vì họ đã lừa gạt quốc hội của dân ..." (Xenophon). Câu
chuyện này "nêu lên sự chịu trách nhiệm của quan chức và công dân trước Quốc
Hội" và "quyền điểu khiển các tướng lãnh của dân chúng" tại
Athens, tuy nhiên nó cũng miêu tả "nhược điểm của Quốc Hội trước tình trạng
bị kích động nhất thời; cái bấp bênh của một số quyết định dựa trên đa số; và
nguy cơ bất ổn chính trị toàn bộ khi thiếu đi hệ thống kiểm soát các hành vi có
tính cách bốc đồng .... Về sau, hiến pháp Athens được bổ sung với các điều khoản
nhắm tăng cường sự kiểm soát và ngăn ngừa những trường hợp đưa đến các quyết định
hối hả không thể đảo ngược. Những thay đổi trên nhằm tạo nên cân bằng giữa quyền
lực của dân chúng và khuôn khổ hiến pháp để thực thi thủ tục và luật pháp, tuy
nhiên không lấy gì làm chắc rằng đấy đã là đủ để đạt được mục đích ..."
(Held).
Một vấn đề nữa
liên quan đến dân chủ Hy Lạp cổ điển là sự nguy hiểm khi bình đẳng chính trị được
áp dụng một cách cứng ngắc. Plato, nhà phê bình nổi tiếng tại Athens, rất bực
mình với khái niệm cho rằng quyền tham gia chính trị của mỗi công dân là bằng
nhau. Theo Plato, đa số mọi người không có vốn kinh nghiệm hoặc kiến thức cần
thiết để quyết định một cách sáng suốt các việc của công. Nếu chúng ta cho phép
họ trực tiếp phán quyết, thì một là họ sẽ làm rất tệ, hoặc họ sẽ bị những kẻ
chuyên quyền làm lạc lối. Hơn thế, Platon cũng cho rằng "sự lãnh đạo chính
trị trong một nền dân chủ bị yếu đi vì phải nhượng bộ cho các đòi hỏi của số
đông và vì các chiến lược được dựa trên những gì có thể ‘bán được'. Việc suy
xét cẩn trọng, các quyết định khó khăn, những lựa chọn phiền phức bất thường,
các sự thật khó ưa thường được né tránh theo nhu cầu cần thiết. Trong một nền
dân chủ, người tài giỏi bị cho là thứ yếu, không quan trọng." (Held). Chót
hết, Plato cũng lo rằng hai khái niệm tự do và bình đẳng chính trị "không
đi đôi với sự duy trì thẩm quyền, trật tự và ổn định ... (bởi vì) sự liên kết
trong xã hội bị đe dọa, đời sống chính trị ngày càng trở nên rời rã và chính trị
trở thành cuộc thách đố giữa các phe cánh." Qua nhiều bài viết kế tiếp về
chủ đề này, ta sẽ thấy rằng phần lớn những lo lắng của Plato, tuy chưa phải tất
cả, đã được giải quyết bằng một xã hội dân chủ dựa trên khuôn khổ hiến pháp và
đại biểu.
Ngoài ra,
theo giáo sư Dahl dẫn chứng, cũng còn nhiều vấn đề khác liên quan đến dân chủ
Hy Lạp cổ điển. Vấn đề thứ nhất là tính loại trừ trong mô hình xã hội này: phụ
nữ và nô lệ đều bị loại ra. Ngay cả "những di dân" cũng bị loại trừ,
cho dù gia đình họ đã định cư tại Athens từ nhiều thế hệ trước. Như đã nêu
trên, vần đề thứ nhì là người dân Hy Lạp không công nhận những quyền lợi không
thể chuyển nhượng của cá nhân. Trong một thành quốc dân chủ, "sự tự do có
nghĩa là tuân thủ luật pháp và tham gia vào quá trình quyết định, chứ không có
nghĩa việc sở hữu các quyền bất chuyển nhượng ... Không có giới hạn nào đối với
quyền lực của chính quyền, Quốc Hội có toàn quyền can thiệp một cách hợp pháp
vào bất cứ sinh hoạt, hành vi nào của dân, miễn sao những quyết định ấy được Quốc
Hội cho là hợp lý (Finley). Sau hết, như đã dẫn chứng, sự áp dụng của mô hình
dân chủ Hy Lạp vốn bị giới hạn trong những hệ thống cấp nhỏ. Tuy nhiên, dẫu có
nhiều vấn đề, nền xã hội dân chủ Hy Lạp cổ điển và những chỉ trích của nó vẫn
luôn là di sản để cho thế hệ chúng ta ngày nay và những thế hệ mai sau học hỏi.
Tài liệu
tham khảo:
1. David
Held, Models of Democracy, Second Edition, Stanford University Press, 1996
2. Robert A.
Dahl, Democracy and Its Critiques, Yale University Press, 1989
3.
Aristotle, The Politics, The University of Chicago Press, 1984
4. Plato,
The Republic, Harmondsworth: Penguin, 1974
© Học Viện
Công Dân 2014
Nguồn: http://icevn.org/vi/node/2439