Chủ nghĩa toàn trị trong cơn khủng hoảng: Liệu có thể chuyển biến êm thấm để đến với dân chủ?

Posted on
  • Thứ Tư, 20 tháng 7, 2016
  • by
  • Minh Anh
  • in
  • Nhãn:
  • Mọt Sách Già chuyển ngữ
    Để có thể định nghĩa thế nào là toàn trị thường người ta phải viết cả một tập sách lý thuyết dầy về cấu trúc chính quyền, xã hội của một nhà nước toàn trị. Đó là một công việc cực nhọc nhưng lại hay không được đánh giá cao, bởi vì ngoài việc những cuốn sách đó luôn là quá khó hiểu đối với những người bình thường không có hiểu biết nhiều về chính trị mà còn vì những định nghĩa mang tính hàn lâm (về toàn trị) không thể chỉ ra được những đặc điểm mang tính bản chất của chế độ toàn trị đó là tính phi nhân tính của nó, sự nguy hiểm của nó đối với nhân loại, mức độ sợ hãi và tuyệt vọng của người dân trong những chế độ đó phải trải qua. Không những thế việc định nghĩa hay xác định khái niệm về chế độ toàn trị thường dễ trở nên rối rắm và phức tạp do thường được đem ra so sánh với chế độ dân chủ tự do. Với cách tiếp cận kiểu như vậy thường dẫn con người ta đến sự bế tắc. Sự khác biệt là quá lớn đến độ mọi sự so sánh sẽ dẫn đến đơn giản hoá, bóp méo, và dẫn tới kết luận “như nhau về mặt đạo lý” mà có thể tóm tắt bằng kiểu lập luận thông thường như thế này:”Bọn chúng là quân ăn thịt, nhưng chúng ta cũng có phải những người ăn chay ngoan đạo đâu?”.
    Cách tiếp cận tốt hơn để định nghĩa một chế độ toàn trị là so sánh nó với một chế độ độc tài thông thường (authoritarianism - ND). Mặc dù sự khác biệt vẫn rất lớn, nhưng có lẽ dễ chấp nhận và nắm bắt hơn. Lấy ví dụ, dưới một số chế độ độc tài thông thường (như độc tài quân sự –ND), công đoàn bị cấm hoạt động và đó là việc vi phạm quyền tự do lập hội đoàn của công dân. Trong những chế độ toàn trị thì còn tệ hơn nữa, họ luôn có 100% công nhân tham gia công đoàn, nhưng công đoàn chỉ là “cánh tay nối dài” của Đảng nhằm kiểm soát chặt chẽ gắt gao lực lượng lao động và ngăn cản không cho những hoạt động công đoàn nghiêm chỉnh và chính đáng diễn ra. Điều đó có nghĩa là đối với bất kỳ ai muốn đứng ra đấu tranh nhằm bảo vệ quyền lợi của công nhân, họ không những phải đối mặt với chủ lao động, mà bản thân việc này đã là khó rồi, mà còn phải đối đầu với một tổ chức khổng lồ những kẻ mánh khoé chuyên nghiệp và có trong tay quyền lực không giới hạn. Nhưng nếu chúng ta tiếp cận bằng cách so sánh “công đoàn” trong các chế độ toàn trị với công đoàn trong các chế độ dân chủ tự do, thì sự khác biệt sẽ bị xoá nhoà và đánh lạc hướng bởi một loạt so sánh chi tiết về cấu trúc, thủ tục,… dễ gây khó hiểu, khó nắm bắt cho những người không có chuyên môn. Hệ quả của việc so sánh “thấy cây không thấy rừng” như vậy dễ dẫn đến một cảm tưởng sai lầm là cả hai hệ thông công đoàn đều giống nhau, và nếu có khác gì thì là chế độ toàn trị không giống như các chế độ độc tài thông thường ở điểm nó cho phép công đoàn hoạt động.
    Điều tương tự như vậy cũng xảy ra nếu chúng ta so sánh bất cứ tổ chức, xã hội nào trong chế độ toàn trị với những bộ phận “tương ứng” trong các chế độ tự do dân chủ. Chính vì vậy chế độ toàn trị có thể xem là chế độ độc tài mà đã tiến thêm một bước dài trên con đường độc tài. Thay vì đóng cửa, xoá bỏ những tổ chức xã hội dân sự (như đối với một số chế độ độc tài quân sự – ND), chế độ toàn trị thay thế chúng bằng các tổ chức xã hội dân sự giả hiệu có vẻ giống như trong các chế độ tự do dân chủ, nhằm ngăn cản bất cứ một hành động độc lập nào ngoài vòng kiểm soát của Đảng trong xã hội. Chính vì thế chế độ độc tài toàn trị còn tồi tệ và độc tài hơn rất nhiều so với những chế độ độc tài thông thường. Không giống như những chế độ độc tài thông thường, chế độ độc tài toàn trị luôn kiểm soát mọi mặt của cuộc sống trong xã hội. Nó không những buộc con người trong chế độ phải sống như những nô lệ (của nhà nước toàn trị –ND) mà còn buộc họ phải sống thường xuyên trong những sự giả dối. Trên hết nó làm cho toàn xã hội băng hoại đến mức độ việc quay trở lại với tự do và dân chủ là gần như không thể.
    Quả vậy, trong khi chưa có một chế độ độc tài toàn trị nào chuyển đổi trong hoà bình sang dân chủ (trừ phi do có sự can thiệp và chiếm đóng quân sự của nước ngoài), rất nhiều các chế độ độc tài thông thường đã làm được như vậy trong vòng mười, mười lăm năm qua. Hơn nữa sự chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ ở các nước này thường diễn ra rất nhẹ nhàng, nhanh chóng và hoà bình, thường bắt đầu bằng cái chết của nhà độc tài (như ở Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha), hay bằng một cuộc đảo chính (ở Paraguay), hoặc do không thể đàn áp nổi lực lượng đối lập (ở Philipine), do sức ép của cộng đồng quốc tế (Nam Triều Tiên, Chilê), thậm chí đôi khi do chính những nhà độc tài tự nguyện từ bỏ quyền lực độc tài của mình (như ở Thổ Nhĩ Kỳ, Achentina). Nhưng đối với những quốc gia toàn trị, những chuyện trên hoàn toàn không thể xảy ra. Lãnh tụ tối cao chết (diễn ra thường xuyên) hay bị hạ bệ, nhưng hệ thống chính trị vẫn không đổi, vẫn sẵn sàng nghiền nát mọi sự đối lập, chống đối với mức độ tàn bạo vốn có. Các chế độ toàn trị không những không chịu sức ép quốc tế mà thậm chí còn được ủng hộ, được đối xử đặc biệt bởi các nước tự do dân chủ. Chẳng có một quốc gia tự do dân chủ nào dám áp đặt sức ép lên chế độ toàn trị ở quốc gia láng giềng của mình.
    Phần lớn trong những xã hội độc tài chuyển sang dân chủ kể trên, những ảnh hưởng của thời gian nằm dưới chế độ độc tài còn tồn tại, kéo dài hàng năm, thậm chí hàng thập kỷ. Như Plato đã nói mọi chế độ dân chủ đều có mầm mống độc tài và mọi chế độ độc tài đều có mầm mống dân chủ. Bởi độc tài và dân chủ đều là sản phẩm của văn minh nhân loại.
    Nhưng điều đó có lẽ không đúng lắm đối với một chế độ độc tài toàn trị. Cái xã hội orwen (Orwen là nhà văn Anh có những kiệt tác văn học về các chế độ toàn trị như Animal Farm, 1984 – ND) đó được xây dựng trên nền tảng một học thuyết, như một thứ tôn giáo, được cài đặt vào mọi tế bào trong cấu trúc xã hội. Cho dù đến lúc mà cả xã hội không còn ai tin tưởng vào cái học thuyết ấy nữa, thì hệ thống chính trị của nó vẫn tồn tại cho đến khi nó vắt cạn của xã hội “toàn bộ của cải, tài nguyên, đất đai, và nguồn lực” (1)
    I. Xem xét dưới góc độ chính trị
    Với những sự kiện diễn ra trong thập kỷ qua, không nghi ngờ gì nữa chúng ta đang chứng kiến ngày tàn của các chế độ xã hội chủ nghĩa, các chế độ toàn trị được xây dựng trên công thức “chủ nghĩa xã hội khoa học” này đang đi vào cơn khủng hoảng. Bản thân khái niệm “chủ nghĩa xã hội khoa học” đã là khái niệm gây tranh cãi, phản khoa học ngay từ đầu thế kỷ này, nó cũng chỉ như những giấc mơ Utopia khác của nhân loại (Utopia là xã hội lý tưởng trong tác phẩm cùng tên của Sir Thomas Moore ở thế kỷ 16. Trong lịch sử triết học của nhân loại trường phái dựa vào các xã hội lý tưởng (utopia dream) gồm có Plato (Utopia là xã hội Athen cổ đại), Khổng Tử (Utopia của ông là xã hội nhà Chu (đời Chu Công)), và Marx –Angel (Utopia là “chủ nghĩa xã hội khoa học”)… – ND). Những kết quả của khoa học tự nhiên hiện đại về Gene và Thần kinh học đã chứng minh rằng việc tạo ra những “con người mới” hoàn hảo bằng cách tạo ra môi trường sống hoàn hảo là không thể, những kết quả mà Stalin đã phải gọi là “khoa học dởm của bọn tư bản”. Trái ngược với lý thuyết Marxit, hệ thống “lao động tập thể” đã tỏ ra vô cùng kém hiệu quả so với hệ thống lao động khuyến khích cá nhân. Ngay từ những năm 50 của thế kỷ, những dự đoán về “chủ nghĩa xã hội khoa học” đều đã sai, trong khi việc “tư bản dãy chết trên toàn thế giới” vẫn chưa thấy xảy ra.
    Mặc dù vậy hệ thống xã hội toàn trị vẫn còn tiếp tục tồn tại và gây ảnh hưởng. Những động lực bên trong, sự thiếu hụt cơ chế kiểm soát ngược (trừ cơ chế tự động đàn áp đối lập), sự bám chắc lấy quyền lợi của tầng lớp thống trị, vẫn giữ cho chúng tiếp tục hiện diện. Tuyên truyền thay thế cho những thành tựu, cưỡng bức thay thế cho niềm tin, sự sợ hãi và lãnh cảm thay thế cho những nhiệt tình cách mạng. Về mặt đối nội, hầu như không thể có sự thách thức đáng kể từ phía nhân dân vì nhà nước toàn trị quá mạnh mẽ và tàn bạo. Về mặt đối ngoại các nhà nước toàn trị nhận được sự cảm thông về mặt tư tưởng và nỗi ám ảnh chiến tranh hạt nhân giúp chúng không bị thách thức trên trường quốc tế.
    Tuy nhiên có hai yếu tố sẽ dẫn đến sự sụp đổ của chế độ toàn trị đó là sự hữu hạn của tài nguyên trong nước và gánh nặng cạnh tranh quốc tế ngày càng tăng. Cho dù các chế độ toàn trị có cố tỏ ra hiền từ đến bao nhiêu đi nữa thi sự tồn tại các chế độ dân chủ phú cường và khả năng tự bảo vệ của họ sau chiến tranh cũng đã là thách thức đáng kể cho việc giành quyền bá chủ thế giới của hệ thống toàn trị độc tài. Thêm vào đó, sự mở rộng ảnh hưởng của các chế độ toàn trị ra thế giới thứ ba tạo ra những quốc gia sản xuất không hiệu quả (theo lối XHCN –ND), không thể tồn tại nếu không có sự trợ giúp từ các quốc gia lớn hơn trong hệ thống toàn trị. Tất cả những chi phí để trợ giúp các nước toàn trị nghèo hơn cộng với những sự lãng phí ghê gớm của những nền kinh tế xã hội chủ nghĩa tại nội địa cuối cùng cũng đã làm cạn kiệt tài nguyên của thế giới toàn trị. Hệ thống toàn trị không còn có thể tồn tại theo dạng truyền thống để mà “một mình thực hiện nhiệm vụ lịch sử cao cả là giải phóng nhân loại khỏi bóng đêm tư bản” được nữa.
    Một điều đáng chú ý ở đây là sự khủng hoảng của chủ nghĩa toàn trị trùng hợp với sự hồi sinh kinh tế của thế giới phương Tây và điều đó lại càng làm cho tuyên bố về “sự dẫy chết của tư bản” khó xảy ra. Hơn thế nữa sự hồi phục kinh tế này lại đạt được nhờ biết đảo ngược các xu thế xã hội chủ nghĩa trong lòng các nước này bằng việc thắt chặt chính sách quản lý tiền tệ, giảm thuế thu nhập, tư hữu hoá một loạt các ngành công nghiệp mà trước đó còn là công hữu, cũng như đưa ra những biện pháp nhằm giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp của nhà nước lên nền kinh tế. Sự thành công đáng kể của đường lối phục hồi kinh tế này của một số quốc gia tư bản phương Tây là sức lôi cuốn khó cưỡng lại đối với những nước khác. Thậm chí ngay tại những quốc gia như Pháp, Australia, New Zealand, những nơi mà các đảng dân chủ xã hội đang nắm quyền, họ vẫn buộc phải từ bỏ những nguyên lý xã hội chủ nghĩa và tiến hành những chính sách tương tự nhằm giữ được sức cạnh tranh trên trường quốc tế.
    Thật không có gì ngạc nhiên khi các chế độ toàn trị – nơi mà chủ nghĩa xã hội không những chỉ là một lý tưởng mà còn được thể hiện vào từng cấu trúc nhỏ của xã hội – chính là những kẻ bại trận thảm hại nhất. Đột nhiên khoảng cách giữa họ với các nước phát triển trở nên khổng lồ. Trong khi các nước phát triển đang đi vào giai đoạn phát triển hậu công nghiệp thì những quốc gia toàn trị vẫn còn đang phải vật lộn để hoàn thành giai đoạn công nghiệp hoá. Trong khi nền kinh tế của thế giới tự do đang mở rộng, thì nền kinh tế của những quốc gia toàn trị trao đảo, chẳng còn tài nguyên thiên nhiên và con người cho họ thực hiện những bước “đại nhảy vọt” nữa. Do đó có thể tóm tắt lại rằng sự lựa chọn hiện nay đối với những chế độ toàn trị chỉ còn bó hẹp lại hai đó là: hoặc là phải tự thay đổi hoặc là bị sụp đổ. Thế cho nên không có gì là lạ khi phần lớn trong số đó đang tiến hành cải cách, tái cấu trúc, tái hiệu chỉnh.
    Mặc dù vậy không rõ là những kẻ cai trị ở các chế độ toàn trị đã hiểu được hoàn toàn sự khủng hoảng này chưa và sẽ sẵn sàng cải cách, thay đổi đến mức nào. Như chúng ta đã biết một vài quốc gia toàn trị đã bắt đầu quá trình này khá sớm so với những quốc gia khác và đến lúc này đã tiến được xa hơn. Ví dụ như Hungary, Nam Tư, Ba Lan đã phá bỏ chế độ hợp tác xã từ những năm 50, trong khi đó sự chấm dứt của các công xã ở Trung Quốc chỉ diễn ra sau cái chết của Mao, còn Liên Xô hiện nay mới đang dự tính phá bỏ các nông trang. Tuy nhiên ngay ở các nước Đông Âu hiện nay, ngoại trừ Hungary, các đảng CS nắm quyền vẫn chưa đánh giá hết được mức độ khủng hoảng của hệ thống chính trị toàn trị, vẫn cố nắm vững quyền lực và bắt mọi cải cách phải vào cái “khuôn khổ của chủ nghĩa xã hội” (giống như cụm từ “định hướng XHCN” –ND). Tại Đông đức, sự phản kháng của công chúng đã giúp lật nhào một chế độ toàn trị cứng rắn và bảo thủ. Trong khi đó Liên Xô và Trung Quốc vẫn hy vọng rằng chế độ có thể tiếp tục tồn tại với những hiệu chỉnh bên trong, nhất là Trung Quốc sau sự kiện Thiên An Môn đang cố củng cố thành luỹ. Mô hình cải cách ở Liên Xô và Trung Quốc hoàn toàn bỏ qua những bài học thực tế ở Đông Âu, mô hình Đông Âu đã từng được thử và thất bại dẫn đến hai nước này phải tiến hành những cải cách cơ bản hơn với tốc độ mỗi nước khác nhau.
    Thật mỉa mai, ngay cả khi lực lượng đối lập đủ mạnh như ở Balan, cũng chấp nhận theo “khuôn khổ chủ nghĩa xã hội” và do đó đánh mất tư cách là một lực lượng chính trị thực sự có thể đưa ra một con đường đi hoàn toàn mới. Cho dù đây chỉ là chiến thuật “lùi một bước tiến hai bước” của lực lượng đối lập hay thực sự họ tin vào một “loại chủ nghĩa xã hội khác” thì kết cục cũng giống nhau mà thôi. Một lực lượng đối lập mà thay vì đưa ra một con đường mới đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng lại chỉ cố gắng giành quyền lực từ một chính quyền thối nát đã mất hết lòng tin của nhân dân thì sớm hay muộn cũng sẽ đánh mất lòng tin của nhân dân (điều này thì tác giả đã đoán đúng vì Công đoàn đoàn kết hiện đã thất bại và mất quyền ở Balan –ND). Những kiểu lực lượng đối lập như vậy có lẽ chỉ có tác dụng để đối lập với sự độc quyền lãnh đạo của đảng toàn trị hơn là niềm hy vọng của nhân dân.
    Chính vì vậy tình hình Balan hiện nay cho thấy cả hai phía cùng đang rất thoả mãn với vai trò mới của mình trong cuộc mua bán mặc cả. Những người cộng sản, những người rõ ràng không còn có thể độc quyền cai trị được nữa, thì cho rằng họ đã tìm ra một lối thoát lý tưởng để có thể vẫn giữ được quyền lực của mình mà không phải dùng đến quân đội để đàn áp bằng cách tham gia làm đối tác cao cấp trong công ty với 65 phần trăm cổ phiếu trong tay; trong khi đó phe đối lập nghĩ rằng họ có thể làm quyền lực của đảng cộng sản giảm dần cho đến độ nó chỉ còn là hình thức và lúc đó sẽ giải thể chủ nghĩa xã hội mà không cần phải đối đầu với chính quyền và do đó không phải đổ máu.
    Quá để ý đến đối tác của mình nên cả hai bên đều không thèm để ý đến câu trả lời cho những câu hỏi: thái độ của người dân đối với hợp đồng của họ là như thế nào? Liệu những người dân có đáp ứng lại bằng việc nhiệt tình tăng năng xuất sản xuất và hiện đại hoá nền kinh tế mà không lo lắng đến cuộc sống trước mắt? trong khi cả thế giới đang vỗ tay với những gì gọi là “cách mạng nhung” diễn ra ở Balan thì không ai hỏi liệu thoả ước mới giữa hai bên này là một lời giải hay chỉ là kéo dài cơn đau?
    Những “thoả thuận bàn tròn” vừa được ký, người dân đã phản đối nó. Hậu quả là chúng ta phải chứng kiến một tình huống chưa từng có trong lịch sử nhân loại: Bên đối lập đang thắng cuộc phải đi thuyết phục quần chúng đang ngại ngùng để bỏ phiếu cho bên chính quyền đang thua để tránh không giành chiến thắng. Liệu chúng ta có thể tưởng tượng ra hài kịch tương tự diễn ra trong những cuộc bầu cử có Marcos ở Philipine hay những cuộc trưng cầu dân ý ở Chile? Liệu những động thái kiểu như vậy của phe đối lập mà diễn ra ở các quốc gia trên thì thế giới có vỗ tay?
    Tình huống còn có thể xấu hơn nữa: người dân Balan sẽ bầy tỏ sự khinh thị của mình với bản hợp đồng giữa phe đối lập và chính quyền cộng sản. Sự suy sụp và khủng hoảng về kinh tế sẽ dẫn đến những làn sóng đình công và lộn xộn. Liệu lúc đó công đoàn đoàn kết có tay trong tay với cảnh sát để “làm cho công nhân bình tĩnh trở lại” hay họ lại tham dự vào phong trào đấu tranh của công nhân và do đó mất quyền lãnh đạo chính phủ? Tóm lại, bằng việc ký “thoả thuận bàn tròn” với chính phủ công đoàn đoàn kết đã tự đưa mình vào tính huống không thể thắng; do đó trong tương lai không xa công đoàn đoàn kết sẽ bị mất uy tín đã được gây dựng của mình hoặc sẽ phải đối mặt trực diện với những người cộng sản theo cái cách mà ngay từ đầu họ đã muốn tránh.
    Mặc dù có cố tỏ ra thật lạc quan, tôi vẫn phải cho rằng kịch bản đáng buồn này sẽ có nhiều khả năng xảy ra (thực tế đã xảy ra đúng như tác giả dự báo –ND). Tháo dỡ chế độ xã hội chủ nghĩa không phải là một việc đơn giản và dễ dàng. Magret Thatcher đã phải mất 10 năm để làm được điều đó ở Anh quốc, cho dù chủ nghĩa xã hội ở đó chưa bám rễ sâu như ở các nước Đông Âu. Ngay cả như thế, quá trình diễn ra ở Anh quốc cũng khá trắc trở, lúc đầu nó làm cho nhiều người dân hết sức khó chịu, và nhiệm vụ này vẫn còn đang phải tiếp diễn. Dó đó nếu quá trình này diễn ra ở các nước xã hội chủ nghĩa thuần tuý, thì những gì mà người dân phải chịu đựng còn kinh khủng hơn gấp nhiều lần. Quá trình thoát khỏi chủ nghĩa xã hội càng diễn ra từ từ, xã hội càng phải chịu đựng nhiều hơn. Hơn nữa, như kinh nghiệm của Hungary cho thấy, cải cách càng từ từ, mức độ thành công càng thấp. Do đó sự chuyển đổi thoát khỏi chủ nghĩa xã hội càng diễn ra chậm rãi bao nhiêu, kết quả kinh tế càng thấp và sự phản kháng của xã hội càng cao bấy nhiêu. Điều này đặc biệt đúng với Liên Xô, nơi tình hình tồi tệ hơn các nước Đông Âu rất nhiều, đối với họ không còn thời gian cho những thử nghiệm và lần mò nữa.
    Nếu như người dân Anh quốc sẵn sàng chấp nhận một giai đoạn khó khăn trong lúc tháo dỡ chủ nghĩa xã hội, thông qua một cuộc bầu cử tự do, dân chủ và công bằng, và sau đó cùng nhau bình thản đón chờ khó khăn, thì sự khó khăn do một chính phủ cộng sản bị căm ghét áp đặt lên toàn xã hội, không bao giờ được toàn xã hội xem như là một loại “thuốc đắng giã tật” họ giành cho mình, ngay cả khi điều đó được phe đối lập ủng hộ. Một đảng đã đè nén, bóc lột người dân đến hàng thập kỷ (và cuối cùng cũng chính vì họ mà có sự khủng hoảng) không còn đáng được người dân tin cậy nữa. Đặc biệt người ta không thể mong những nhà tư sản, những nhà thầu khoán, đối tượng bị công kích và đàn áp ghê nhất của những người cộng sản trong thời gian họ nắm quyền, và là những thành phần đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế – lại có thể bắt đầu đẻ những quả trứng vàng vào cái tổ của cộng sản. Những người dân Xôviết hiện nay hẳn không thể quên được số phận của những người đã tin vào những khẩu hiệu của chính quyền cộng sản trong những năm 20 để “tự làm giầu bản thân”, để trở thành những chủ nông trại, những nhà kinh doanh tư sản. Hàng triệu người trong số đó đã kết thúc cuộc đời của mình trong những trại tập trung ở Siberia sau khi chính sách tân kinh tế (NEP) bị Stalin đóng cửa (xem thêm cuốn Sách Đen Chủ Nghĩa Cộng Sản – Phần về Liên Xô - ND). Những kinh nghiệm kiểu như vậy cũng đã lặp đi lặp lại nhiều lần tại các nước đông Âu, các chính quyền cộng sản nhanh chóng chấm dứt các sở hữu tư nhân. Do đó, như lãnh đạo đảng cộng sản Hungary Imre Pozegay phát biểu gần đây, hệ thống cộng sản không thể chuyển đổi được mà chỉ có thể bị giải tán.(2)
    Tuy nhiên kết luận này thậm chí được coi là không thể chấp nhận được ngay cả ở Vaxava chứ đừng nói đến ở Maxcơva hay Bắc Kinh. Đảng cộng sản cầm quyền, như ta vẫn thấy ở Trung quốc trong mùa xuân năm nay, vẫn sẵn sàng giết chóc và đàn áp “vì chủ nghĩa xã hội” (hay vì để cố nắm vững lấy quyền lực độc tôn – cũng vậy cả thôi). Và tất nhiên họ có lý khi làm việc đó, bởi cái “giai cấp mới” (từ của Milovan Djilas) này ngay từ khi ra đời đã phạm không biết bao nhiêu tội ác với dân tộc và một khi không còn quyền lực trong tay họ sẽ bị nhân dân đưa ra toà để phán xét. Hiếm có một gia đình nào dưới chế độ xã hội chủ nghĩa mà không bị ảnh hưởng bởi sự đàn áp từ phía đảng cộng sản nắm quyền qua các giai đoạn lịch sử, sự thù hận trong các xã hội xã hội chủ nghĩa chất cao như núi. Giai cấp thống trị ở các nước này dĩ nhiên không có con đường nào khác là phải bằng mọi giá bám vào quyền lực và để làm như vậy họ lại càng tạo ra thêm tội ác.
    Cũng chính vì vậy mà các lực lượng đối lập ở các nước xã hội chủ nghĩa thường không giám kêu gọi đối đầu trực diện với chính quyền hay đứng lên làm cách mạng. Không giống như trong một chế độ độc tài thông thường, nơi mà nhóm thống trị chỉ là một dúm người, chế độ độc tài toàn trị tạo ra hẳn một giai cấp những kẻ thống trị. Tại Liên Xô, Gorbachov đã ước tính số lượng thành viên của đẳng cấp quan liêu này là 18 triệu, kèm theo một bộ máy đàn áp khổng lồ. Người ta có thể đầy Ferdinan Marcos (nhà độc tài của Philipine – ND) và mấy cận thần của ông ta ra Hawai, hay tống ngục mấy viên tướng độc tài ở Achetina, nhưng 18 triệu người thì biết đuổi đi đâu? và hãy luôn nhớ rằng 18 triệu con người đó sẽ đấu tranh đến cùng để bảo vệ mạng sống và đặc quyền, đặc lợi của mình. Cho nên một cuộc cách mạng nếu nổ ra ở một chế độ toàn trị thì kết quả sẽ là cái gì nếu không phải là một bể máu?
    Vì vậy một sự dịch chuyển dễ dàng và êm thấm từ toàn trị sang dân chủ là điều gần như không thể xảy ra. Bởi vì chế độ toàn trị đã tái cấu trúc lại toàn bộ xã hội đến từng chi tiết theo hệ tư tưởng của mình, nó đã thay thế tất cả những tổ chức chính quyền và xã hội bằng những tổ chức giả hiệu. Bằng việc làm đó nó đã tạo ra cả một giai cấp những kẻ tổ chức, giám sát, và cai trị chuyên nghiệp nhưng không có khả năng làm việc gì khác (có nghĩa là chỉ biết làm chính trị, làm công tác đảng hay hội đoàn (của đảng) mà không hề biết làm chuyên môn – ND). Những kẻ này không chỉ gắn với chế độ toàn trị do những đặc quyền đặc lợi mà nó đem lại cho họ mà còn bởi vì chính mạng sống của họ gắn liền với sự tồn vong của chế độ do chế độ toàn trị thường kéo cả một bộ phận con người trong xã hội cùng tham gia vào các hoạt động tội ác của nó. Trong các nước cộng sản, cũng giống như trong tác phẩm “những kẻ bị ma ám” của đại văn hào Dotoievski, một công nghệ xã hội phức tạp (“đấu tranh giai cấp”) được xử dụng để gắn giai cấp thống trị vào cái vòng sinh sát. Những kẻ cai trị ngoài việc “quản lý nhà nước bằng các mệnh lệnh” ra không biết cách quản lý nào khác thực sự đã trở thành trở ngại của sự tiến bộ của xã hội, nhưng vẫn là một lực lượng mạnh không dễ gì bị tước bỏ quyền lực. Họ là nhà nước trong nhà nước, họ như là lực lượng chiếm đóng nhưng lại không thể bị lật đổ bằng đảo chính hay bị buộc phải thoái lui vì họ chẳng có chỗ nào mà lui cả. Trong kỷ nguyên của vũ khí nguyên tử, khó có thể tưởng tượng được sự chiếm đóng của lực lượng ngoại bang đối với các quốc gia toàn trị (như trường hợp Đức quốc xã -ND), do đó chế độ toàn trị chỉ có thể bị sụp đổ hoàn toàn bằng một cuộc nội chiến hay sự sụp đổ của nền kinh tế (hoặc cả hai). Một lực lượng đối lập có tổ chức tốt và đủ mạnh có thể giúp giảm thiểu bạo lực, nhưng những lực lượng đối lập như thế khó có thể tồn tại trước sức mạnh của các chế độ toàn trị.
    Tuy thế, tôi cũng phải thừa nhận rằng có những điểm khác biệt giữa các chế độ toàn trị đang tồn tại và sự khác biệt này có thể sẽ đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn cuối của cuộc khủng hoảng. Vì vậy Hungary sẽ có cơ hội để chuyển sang dân chủ một cách êm thấm và hoà bình hơn so với các nước khác vì ít nhất ba lý do sau đây. Thứ nhất chế độ cộng sản ở đây, trong vòng 30 năm qua, có tự do hơn so với các nước khác; do đó giai cấp thống trị ở đó – những người không dính tay nhiều vào các cuộc đàn áp – có thể buớc xuống khỏi vũ đài chính trị mà không sợ bị nhân dân đưa ra toà. Lý do thứ hai là khi cơn khủng hoảng ập đến đối với các chế độ toàn trị, thì Hungary đã tiến trước các nước khác từ rất lâu trong việc cải cách nền kinh tế và tháo dỡ chủ nghĩa xã hội. Lý do thứ ba là dường như giai cấp thống trị tại Hungary nhận thức được mức độ của cuộc khủng hoảng hiện tại và chấp nhận khả năng nhường lại quyền lực.
    Các nước Đông Âu nói chung sẽ có cơ hội phục hồi tốt hơn so với Liên Xô. Không hẳn bởi họ thực hiện cải cách kinh tế trước Liên Xô mà do họ đến với chủ nghĩa xã hội chậm hơn nhiều so với Liên Xô và chưa tiến quá xa trên con đường chủ nghĩa xã hội như Liên Xô, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Hơn thế nữa sự thù hận đối với cộng sản và chủ nghĩa cộng sản ở đó thấp hơn nhiều so với ở Liên Xô, bởi đối với họ xét cho cùng chủ nghĩa xã hội là do “người Nga” mang đến. Tuy vậy, nếu ai đó hy vọng sự sụp đổ nhanh chóng của chế độ cộng sản sau cái chết của “học thuyết Bredơnhev” thì họ có lý do để thất vọng. Chỉ cần nhìn vào Afganistan sau khi quân Liên Xô đã rút hết cũng có thể thấy tầm quan trọng của cái “giai cấp mới” kia trong chế độ toàn trị là như thế nào. Sự khác biệt giữa một quốc gia truyền thống và một quốc gia cộng sản là vô cùng lớn, cũng giống như sự khác biệt giữa độc tài toàn trị và độc tài thông thường, giữa chiếm đóng và tự chiếm đóng vậy. Điểm mấu chốt ở đây không phải là ai đã mang chủ nghĩa cộng sản hay bằng cách nào mà nó vào được một quốc gia, một khi nó đã cắm rễ ở đó. Cho dù đã có rất nhiều đổi thay gần đây trong các chế độ toàn trị, quá trình chuyển đổi từ toàn trị sang dân chủ còn lâu nữa mới được hoàn thành.
    Không cần phải nói cũng có thể biết, sự dịch chuyển khó khăn nhất sẽ diễn ra tại Liên Xô, cái nôi của chủ nghĩa xã hội, nơi mà đã có ít nhất 3 thế hệ sinh ra và lớn lên dưới sự cai trị của chế độ toàn trị. Những vấn đề về sắc tộc sẽ càng làm cho vấn đề thêm phức tạp. Đất nước này chậm chân hơn nhiều các quốc gia láng giềng trong việc đổi mới kinh tế những đã tiến xa hơn rất nhiều trong việc đàn áp. Nhưng ngay cả khi có một phép lạ xảy ra khiến tất cả những người cộng sản biến mất hoàn toàn trong các nước xã hội chủ nghĩa thì chúng ta cũng đừng ngây thơ mà tin rằng khủng hoảng đã được giải quyết, bởi không như một chế độ độc tài thông thường, chế độ toàn trị để lại một xã hội tổn thương và biến dạng, một nền kinh tế bị phá huỷ, những nguồn tài nguyên bị cạn kiệt, và một sự thoái hoá tổng thể.
    II. Xem xét dưới góc độ kinh tế
    Ngay cả những chế độ độc tài ngu xuẩn nhất và luôn bị ám ảnh bởi quyền lực cũng không bao giờ ra mệnh lệnh buộc nhà sản xuất phải sản xuất theo cách nó mong muốn hay buộc thương gia phải buôn bán theo cách mà nhà nước đã định sẵn. Vậy mà trong các chế độ xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp thì việc sản xuất từ cái kim, sợi chỉ đều theo kế hoạch định sẵn của chính quyền trung ương, tất cả đã được chính quyền quyết định từ trước: sản xuất như thế nào, sản xuất lúc nào, ở đâu, chất lượng bao nhiêu, số lượng bao nhiêu, giá cả thế nào. Không những thế những công dân trong các chế độ xã hội chủ nghĩa được dạy rằng hạnh phúc chỉ có thể đến với nhân loại nếu tất cả mọi thứ từ cây kim, sợi chỉ được kế hoạch hoá như vậy, nếu không như vậy thì sẽ là chiến tranh, đói nghèo, nô lệ những thứ mà con người nào có ai muốn?
    Đế có thể hiểu được cơ cấu kinh tế xã hội chủ nghĩa ta nên đọc Kafka trước sau đó chỉ cần đọc Marx, bởi chỉ có làm như thế ta mới hiểu được mối liên hệ giữa quá trình sản xuất trong các nước xã hội chủ nghĩa và quá trình biến con người thành sâu bọ.
    Phương thức sản xuất vật chất quy định cuộc sống xã hội, chính trị, và tri thức. Nhận thức của con người không quyết định sự tồn tại của họ mà ngược lại sự tồn tại xã hội của họ quyết định nhận thức. (3)
    Nền công nghiệp hiện đại tạo ra quá trình sản xuất xã hội có tổ chức cao vượt ra ngoài phạm vi sản xuất gia đình đã tạo ra một nền tảng kinh tế mới... Hơn nữa rõ ràng rằng sự hình thành những nhóm lao động tập thể bao gồm nhiều cá thể với giới tính, lứa tuổi khác nhau, trong những điều kiện thích hợp trở thành hướng phát triển về phương thức sản xuất của nhân loại” (4)
    Do đó Marx lập luận rằng sự phát triển của “chủ nghĩa tư bản” sẽ tất yếu dẫn đến “cách mạng vô sản” và dẫn tới sự ra đời của “chủ nghĩa xã hội”.
    Cùng nhau xây dựng sự tập trung của tư liệu và công cụ lao động hay chính là sự tước đoạt của thiểu số tư sản, làm xuất hiện sự cộng tác trong quá trình lao động, ứng dụng các thành tựu khoa học, áp dụng các phương pháp canh tác đất đai, biến đổi công cụ lao động thành công cụ lao động chung của xã hội, tiết kiệm tư liệu sản xuất bằng việc sử dụng chúng như là tư liệu sản xuất của lực lượng lao động chuyên sâu và kết hợp, sự liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau của con người trên thị trường quốc tế, và đó là đặc trưng quốc tế của các chế độ tư bản. Cùng với sự suy giảm số lượng các trùm tư bản kếch xù, những kẻ lợi dụng và độc quyền giành lấy tất cả những lợi thế từ quá trình chuyển đổi này, thì đồng thời cũng làm tăng lên sự nghèo đói, đau khổ, bị áp bức và bóc lột của giai cấp lao động, nhưng cũng làm giai cấp lao động lớn mạnh hơn, kỷ luật hơn, đoàn kết hơn, được tổ chức hơn nhờ vào chính quá trình sản xuất tư bản. Sự độc quyền của giai cấp tư sản ngày càng trở thành lực cản cho quá trình sản xuất mà từ đó nó ra đời và phát triển. Sự tập trung hoá cao độ tư liệu sản xuất và sự chuyên biệt hoá trong phân công lao động xã hội sẽ tiến tới điểm mà nó không còn có thể nằm bó buộc trong cái vỏ tư bản chật chội được nữa. Cái vỏ đó tất yếu phải bị vỡ ra làm nhiều mảnh. Đó là sự cáo chung của tư hữu tư bản. Những kẻ đi tước đoạt lại bị tước đoạt. (5)”
    Không khó để có thể nhận ra rằng cả ba tập “tư bản luận”, được Marx viết ra là để làm “luận cứ khoa học” cho giấc mơ thời trai trẻ của ông về một cuộc cách mạng vô sản. Đơn giản là ông đã tưởng tượng ra một mô hình phát triển kinh tế mà theo đó sẽ tất yếu dẫn tới cuộc cách mạng. Chính vì vậy ông vứt bỏ đi phần quan trọng nhất của kinh tế thị trường đó chính là bản thân thị trường, với cơ chế xác lập giá riêng của chính nó – mà thay vào đó ông tưởng tượng ra một thứ “giá trị” kỳ quái của sản phẩm của quá trình sản xuất được đo bằng “thời gian lao động cần thiết trung bình của xã hội” đối với sản phẩm này:
    Thời gian lao động cần thiết của xã hội là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra giá trị sản phẩm trong điều kiện sản xuất bình thường của một xã hội với cường độ lao động và kỹ năng lao động trung bình vốn có trong xã hội” (6)
    Tất cả là giá trị lao động bằng sức con người, còn những phát minh sáng chế, sáng kiến thì không được tính đến trong công thức của Marx, và do đó cách duy nhất để những tên tư bản “khốn kiếp” có thể kiếm được lợi nhuận (giá trị thặng dư) là bóc lột người lao động bằng cách trả lương thấp hơn giá trị lao động của anh ta (và do đó bóc lột giá trị thặng dư – ND). Nếu đúng là nền kinh tế tư bản phát triển như vậy thì Marx hoàn toàn đúng. Nền kinh tế sẽ phát triển rộng hơn nữa và ngày càng tiêu tốn tài nguyên và kém lợi nhuận, đồng thời số lượng những người vô sản sẽ tăng tỷ lệ thuận với sự phát triển đó và mức sống của họ sẽ suy giảm đến mức cùng khổ. Trong khi đó cách duy nhất để chiến thắng được trong cạnh tranh là tăng tập trung tư liệu sản xuất và độc quyền sản xuất, và cách duy nhất để tăng năng xuất lao động sẽ là đẩy mạnh hơn nữa quá trình phân công lao động, xây dựng công nghiệp quy mô, và cơ giới hoá, cho đến khi hầu như toàn bộ xã hội đã trở thành vô sản. Và tất nhiên điều dễ thấy, một xã hội như vậy khó mà tồn tại được lâu, với một nền kinh tế tự cung tự cấp thay vì là kinh tế hàng hoá, với nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt và lợi nhuận suy giảm nhanh chóng, và với một lượng khổng lồ những người lao động đói khổ, lại làm việc quá sức lúc nào cũng sẵn sàng nổi dậy.
    Tuy nhiên cả trăm năm sau khi Marx qua đời, cái thế giới mà Marx gọi là “tư bản” đó đã không phát triển theo hướng mà Marx tiên đoán. Trên thực tế nền kinh tế thị trường tự do của thế giới phát triển theo hướng ngược lại với những suy đoán của Marx. Mỉa mai thay, những tiên đoán của Marx lại trùng khớp với mức độ chính xác đến kinh hoàng với sự phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa, những nước dùng “phương thuốc chữa trị xã hội tư bản” của ông. Đây là một sự thật vừa bi và vừa hài.
    Thực ra không khó để có thể hiểu làm thế nào và tại sao vở bi hài kịch đó lại diễn ra. Trong khi mục đích là xây dựng “thiên đường xã hội chủ nghĩa”, những đệ tử của Marx ở thế kỷ 20 lại tạo ra chính cái xã hội tư bản suy đồi mà Marx tưởng tượng ra và muốn xoá bỏ. Bởi vì theo Marx, mọi điều kiện, đặc tính, bao gồm cả “nhận thức xã hội chủ nghĩa” của giai cấp vô sản, đều được chuẩn bị bởi chủ nghĩa tư bản. Và nhiệm vụ của những người vô sản chỉ là loại trừ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, hay nói theo ngôn từ của Marx là “tước đoạt lại kẻ tước đoạt”
    Cái mà chúng ta có ở đây là một xã hội cộng sản không có cơ sở riêng mà hình thành từ chính xã hội tư bản; chính vì mậy mà xét trên mọi mặt của xã hội như kinh tế, đạo đức, tri thức, vẫn còn mang dấu ấn của xã hội cũ, nơi thai nghén ra nó” (7)
    Trong khi hệ thống chính trị cần phải thay đổi sang “nền chuyên chính vô sản”, hầu như không có thay đổi gì nhiều đối với cơ cấu kinh tế, ngoại trừ việc phân phối sản phẩm công bằng hơn. Cho đến khi tới giai đoạn tiếp theo, khẩu hiệu của chủ nghĩa xã hội là “Làm theo năng lực, hưởng theo lao động”.
    Do đó, sẽ không còn có “giá trị thăng dư” cho bọn tư bản bóc lột; người lao động sẽ được trả toàn bộ giá trị lao động của anh ta dựa trên “thời gian lao động xã hội cần thiết”. Thêm vào đó vì lao động tập thể được xem là tiến bộ và hiệu quả hơn, nên cần phải có hệ thống khen thưởng tập thể thông qua các phúc lợi xã hội và loại bỏ được sự bất bình đẳng. Nhưng thật mỉa mai và cũng chẳng có gì ngạc nhiên, khi Liên Xô đi theo công thức của Marx đã có được một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn, ngày càng dùng nhiều tài nguyên, và cũng ngày càng kém hiệu quả. Trên thực tế thì làm gì có ai làm việc vì phần thưởng tập thể cơ chứ? Tại sao một người lao động lại phải làm việc tích cực hơn người khác khi mà giá trị sản phẩm của anh ta lại được tính theo “Thời gian lao động cần thiết trung bình của xã hội ... trong điều kiện sản xuất bình thường của một xã hội với cường độ lao động và kỹ năng lao động trung bình vốn có trong xã hội”?
    Xã hội mới xã hội chủ nghĩa hoàn toàn không chấp nhận thị trường, nơi bị coi là nguồn gốc của những bất công, lợi nhuận phi nhân tính, và thối nát. Thay vào chỗ của thị trường ở Liên Xô, sau khi quốc hữu hoá tất cả nhà máy, xí nghiệp, là cơ quan kế hoạch tập trung của nhà nước (Gosplan), nơi ra mệnh lệnh và điều phối tất cả quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm của quốc gia theo tinh thần của sự bình đẳng tuyệt đối mà Marx đưa ra. Độc quyền như chúng ta thấy là điều tệ hại trong xã hội tư bản, thì nay lại trở thành điều tốt trong xã hội xã hội chủ nghĩa vì nó giúp tổ chức lực lượng lao động theo phương thức xã hội chủ nghĩa.
    Trong bất cứ nước xã hội chủ nghĩa nào, nhà nước là chủ lao động duy nhất, và ông chủ này luôn thích cho xây dựng những ngành công nghiệp nặng tốn kém, những nhà máy vĩ đại, những con đập, kênh đào quy mô thay vì tạo ra những xí nghiệp nhỏ hơn và có khả năng cạnh tranh với nhau. Tại sao lại không làm như thế cơ chứ? Chẳng phải là Marx đã dự đoán rằng chủ nghĩa xã hội là một tất yếu của lịch sử đó sao? vậy thì ai đi trước người ấy lợi. Ngoài ra việc xây dựng một nhà máy khổng lồ rõ ràng là rẻ hơn so với việc tạo ra hàng chục hay hàng trăm cái nhỏ hơn, đồng thời việc quản lý nó cũng dễ dàng hơn trong một nền quản lý tập trung kế hoạch hoá đến từng cây kim, sợi chỉ.
    Cuối cùng việc xây dựng nên những “công trình thế kỷ”, những “công trình vĩ đại của thế giới”, những “đại công trường của chủ nghĩa xã hội” là những bằng chứng hiển hiện cho thấy sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa so với chế độ tư bản. Những công xã của những người vô sản phải luôn đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, thể hiện sức mạnh vô địch của mình trong những việc như bắt sông phải chảy ngược, hay biến cả sa mạc thành vườn hoa muôn sắc.
    Chính vì vậy, trong khi “bọn tư bản” ngày càng đi xa cái mô hình mình Marx gán ghép cho chúng bằng cách loại trừ độc quyền trong công nghiệp, khuyến khích phát triển những xí nghiệp vừa và nhỏ, hiện đại hoá máy móc, công cụ sản xuất, tăng năng xuất thông qua khuyến khích cá nhân trong lao động, thì các nước xã hội chủ nghĩa lại nhanh chóng lâm vào khủng hoảng đúng như dự đoán của người thầy của họ.
    Chúng ta hãy thử so sánh hai nền kinh tế đặc thù của hai bên là Mỹ và Liên Xô dựa trên những dấu hiệu mà Marx đưa ra. Marx tiên đoán rằng chủ nghĩa tư bản sẽ dẫn đến: (a) Sự tăng nhanh về mặt lượng của giai cấp vô sản, ngày càng nhiều người phải trở nên phụ thuộc và phải làm việc cho những nhà tư sản kếch xù; (b) Sự bần cùng hoá đến mức tột cùng của những người vô sản; © độc quyền, tập trung hoá, giảm lợi nhuận, tăng lượng hàng hoá sản xuất do sự cạnh tranh buộc nhà tư bản phải cơ giới hoá sản xuất để tồn tại; (d) phương thức sản xuất trở thành sự cản trở cho lực lượng sản xuất tiên tiến.
    A. Giai cấp vô sản tăng nhanh
    Không ai có thể tìm được ở nước Mỹ một sinh vật nào gọi là “vô sản”, nhưng nếu chúng ta dùng định nghĩa gốc của Marx về vô sản là những người công nhân trong các ngành công nghiệp và nông nghiệp (bao gồm công nhân trong các ngành lâm nghiệp, đánh cá, hầm mỏ, xậy dựng, giao thông, truyền thông) thì con số trong năm 1986 là 39, 493, 000 trong tổng số dân số là 238,740,000 tức là chiếm 16.24 phần trăm dân số. Mặc dù vậy không phải tất cả trong số này đều là “vô sản” bởi trong đó gồm cả những người làm công tác quản lý, nhân viên văn phòng, và chính cả những chủ tư bản.
    Liên Xô vào thời điểm cách mạng tháng 10 chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ những người vô sản (khoảng 3% dân số, xem thêm cuốn Black Book of Communism –ND), vậy mà vào cùng năm đó (1986), con số là 61.7% là công nhân, 12.1 % là nông trang viên (xã viên hợp tác xã - ND), và 26.2% “trí thức” trong tổng số 278,800,000 dân.
    Cho dù chúng ta có không tính nông trang viên vào mục “vô sản” thì tỷ lệ những người vô sản ở Mỹ và Liên Xô tại năm 1986 vẫn là 1:3.79. Nếu tính cả số nông trang viên, mà trên thực tế chính là những người vô sản, thì tỷ lệ này sẽ là 1:4.5.
    Như vậy phát triển công nghiệp trong các nước xã hội chủ nghĩa đã làm tăng nhanh giai cấp vô sản, tăng đến mức khó có thể tăng hơn nữa. Điều đó hoàn toàn trùng khớp với dự đoán của Marx về chủ nghĩa tư bản. Nước Mỹ có lượng người vô sản ít hơn 4.5 lần so với Liên Xô, cộng thêm 7 triệu người thất nghiệp, trong khi đó Liên Xô thì lại thiếu người lao động và điều đó ảnh hưởng đến tăng trưởng công nghiệp.
    B. Sự bần cùng hoá của giai cấp vô sản
    Tại thời điểm năm 1986, lương tối thiểu ở Mỹ là 3.35 Đô la/giờ. Với lịch làm việc 8 giờ một ngày, 5 ngày một tuần thì lương tối thiểu một tháng là 589.60 Đôla. Trong khi đó lương tháng tối thiểu ở Liên Xô là 70 rúp. Giả sử ta có chấp nhận tỷ giá chuyển đổi một Đô la ăn một rúp thì tỷ lệ chênh lệch giữa hai nước là 8.4:1. Nếu lấy, tỷ giá chuyển đổi chính thức của nhà nước Liên Xô đi nữa thì tỷ lệ này vẫn là 5:1, mặc dù khó ai có thể tin rằng sức mua của 60 rúp lại bằng được 100 đô la như nhà nước quy định. Còn nếu lấy tỷ giá ngoài chợ đen thì tỷ lệ trên là 58:1.
    Nhưng vì trên thực tế chúng ta khó có thể biết được có bao nhiêu “nhà vô sản” nhận lương tối thiểu nên có sẽ là thiết thực hơn nếu xem xét lương trung bình. Con số đưa ra của cục thống kê nhà nước Liên Xô là lương trung bình là 210 rúp, được tính trên mọi đối tượng từ nông trang viên cho đến các vị đại tướng. Trong khi đó con số từ cục thống kê Mỹ không phải là lương trung bình của toàn nước mà là lương trung bình của công nhân trong các ngành công nghiệp. Con số đó vào năm 1985 là 19,300 đô la/năm. Nếu so sánh thì các con số đó vẫn cho ta tỷ lệ là 1:4.8 nếu tỷ giá chuyển đổi của nhà nước được sử dụng. Còn nếu chúng ta tính 1 rúp bằng 1 đô la thì tỷ lệ đó là 1:8 (còn tỷ giá chợ đen sẽ đưa tỷ lệ này thành 1:56). (8)
    Như chúng ta đã thấy tỷ lệ trên nhất quán cho cả lương tối thiểu lẫn lương trung bình, cho dù chúng ta định tỷ giá chuyển đổi kiểu gì thì ở Liên Xô con số vẫn thấp hơn ít nhất 5 lần so với ở Mỹ.
    Tuy nhiên những con số về lương vẫn chưa hoàn toàn cho thấy rõ mức độ nghèo khổ của những người vô sản ở Liên Xô. Báo chí Liên Xô gần đây đưa ra con số 35% dân số sống dưới mức nghèo khổ, “thậm chí nhiều gia đình có mức thu nhập bằng hay thấp hơn 50 rúp trên đầu người một tháng” (9).
    Theo con số của thứ trưởng bộ tài chính Victor Semenov, người dân Xô Viết chỉ phải trả thuế thu nhập trực tiếp là 8.6%, nhưng phải trả thuế gián tiếp lên đến 60%. Số tiền thuế 60% phải trả này nằm trong giá bán buôn, bán lẻ dưới dạng thuế lợi nhuận của các xí nghiệp. Chúng ta buộc phải hỏi ở đây liệu đó có phải là “giá trị thặng dư”?
    Nhưng ngay cả các con số về thu nhập trung bình của gia đình cũng chưa thể mô tả hết về bức tranh đói nghèo ở Liên Xô, sự thiếu hụt nhà cửa và chỗ ở (nhiều gia đình phải ở chung nhau trong cùng một căn hộ), tỷ lệ lạm phát được ước tính 12%/năm, nạn nghiện rượu (dĩ nhiên làm giảm thêm thu nhập gia đình), thường xuyên phải trả giá chợ đen để có được những hàng hoá cần thiết, phải hối lộ để được sự phục vụ của hệ thống công quyền, và nhiều thứ chi phí nữa nếu được gộp vào sẽ cho một bức tranh chi tiết hơn về đời sống của các công dân Xô viết. Đó là cái gì nếu như không phải là “sự bần cùng hoá của giai cấp vô sản” mà Marx đã nói đến?
    C. Khuynh hướng tích luỹ tư bản
    Như đã đề cập ở trên, sự độc quyền trong quá trình sản xuất đã không trở thành đặc trưng của “chủ nghĩa tư bản” mà lại trở thành bản chất của “chủ nghĩa xã hội”. Thế còn các đặc trưng khác của “tích luỹ tư bản” thì sao?
    Trong nền kinh tế thị trường tự do thì không có sự phân biệt giữa “tư liệu sản xuất” và hàng hoá (do hàng hoá sản xuất ra của ngành này lại được coi là tư liệu sản xuất của ngành khác –ND); tất cả đều là hàng hoá và ai cũng có thể mua được. Quá trình sản xuất chúng đều mang lại lợi nhuận, và vào thời đại này ai còn có thể phân biệt được chúng nữa? Máy tính là gì? Xe hơi là gì? Máy khâu là gì? Máy giặt là gì? chúng là “tư liệu sản xuất” hay là hàng hoá tiêu dùng?
    Vậy mà trong nền kinh tế của Liên Xô, có cả một sự phân nhóm rõ ràng các ngành công nghiệp:”nhóm A” (sản xuất ra tư liệu sản xuất) và nhóm B (sản xuất ra hàng hoá tiêu dùng). Điều này là hoàn toàn hợp lý ở một quốc gia Marxit, vì có thể mới đảm bảo tất cả tư liệu sản xuất phải “nằm trong tay của toàn dân”. Và nếu theo suy đoán của Marx về chủ nghĩa tư bản thì tỷ trọng nhóm A phải tăng nhanh trong khi tỷ trọng nhóm B phải giảm nhanh. Điều dự đoán đó đã hoàn toàn đúng với Liên Xô, khi mà tỷ trọng của nhóm A và nhóm B là 39.5% và 60.5% vào năm 1928; trong năm 1940 tỷ trọng này là 61% và 39%; năm 1970, chúng đã là 72.5% và 27.5%; năm 1980 là 73.8% và 26.2%; năm 1985 là 74.8% và 25.2%; năm 1986 là 75.3% và 27.3%.
    Hơn thế nữa, như các nhà kinh tế Liên Xô đã phân tích gần đây, hầu như tất cả tăng trưởng đều nằm trong nhóm A và do đó không gây được ảnh hưởng gì đối với mức sống của người dân. Con số thống kê về tăng trưởng kinh tế do nhà nước đưa ra chỉ là những con số huyền thoại mang ý nghĩa chính trị. Nền kinh tế vẫn cơ bản là tự cung tự cấp. (10)
    Mặc dù vậy, số lượng những nhà máy, dự án xây dựng công nghiệp vẫn tăng nhanh cho dù không thể có đủ các tài nguyên để hoàn thành chúng được. Sự mở rộng điên dồ này dẫn đến nhiều sự thiếu hụt. Sự thiếu hụt đầu tiên là lực lượng lao động. Tất cả những người có thể biến thành vô sản thì đã biến rồi.
    Lấy ví dụ về ngành tài nguyên năng lượng. Các tính toán cho thấy lượng tài nguyên sử dụng trong vòng mười bốn năm qua đã vượt quá lượng này của cả thế kỷ trước. Và sự thiếu hụt năng lượng trầm trọng đến độ nhiều chuyến bay phải huỷ bỏ, xe tải không thể vận chuyển hàng hoá do thiếu xăng, dù lượng dầu khai thác hàng năm là 600 triệu tấn.
    Liên Xô sản xuất ra lượng thép, điện tiêu dùng, và máy cày nhiều hơn nước Mỹ, vậy mà vẫn là chưa đủ. Cho dù số lượng giầy dép được sản xuất với số lượng khổng lồ (800 triệu đôi một năm) thì cũng chẳng ai thèm dùng vì chất lượng quá tồi tệ. Và dĩ nhiên 800 triệu đôi giầy này vẫn phải sản xuất không thể thiếu một đôi do nhà nước đã lên kế hoạch trước, người công nhân vẫn nhận được lương và thưởng, các con số GNP và thu nhập của quốc gia vẫn tính con số 800 triệu này, nhưng chẳng ai thèm mua cả.
    Trong khi đó, đúng như Marx đã dự đoán trong cuốn “tư bản luận” của mình, lợi nhuận sẽ bị suy giảm. Quả vậy con số suy giảm lợi nhuận được các nhà kinh tế Xô viết đưa ra là 3% năm, tương đương với 40 tỷ rúp (11). Tạp chí uy tín nhất của Đảng, tờ “tạp chí cộng sản” đã tổng kết như sau:
    “Nếu cứ tiếp tục như hiện tại với lực lượng lao động trực tiếp, nguyên liệu thô và tài nguyên thiên nhiên suy giảm sẽ làm tăng chỗ làm không có người đảm nhận, làm tăng cao chi phí của giao thông vận chuyển hàng hoá, hầm mỏ khai quặng, và bảo vệ môi trường. Cách thức phát triển như hiện nay hoàn toàn bế tắc: càng đầu tư nhiều càng ít kết quả. Với hiện trạng hiện nay đó sẽ là ngõ cụt.” (12)
    Dĩ nhiên đó là ngõ cụt, cái ngõ cụt của nền kinh tế mà Marx đã gọi là “làm cạn kiệt mọi tài nguyên khoáng sản của quốc gia bao gồm cả đất đai và con người”
    D. Sự phát triển của lực lượng lao động tiên tiến
    Như chúng ta đã biết, nền kinh tế thị trường không hề là lực cản cho bất cứ “lực lượng lao động tiên tiến”, công nghệ mới, hay phương pháp quản lý mới nào. Trên thực tế kinh tế thị trường không thể tồn tại nếu không khuyến khích sự phát triển của chúng. Nền kinh tế thị trường có khả năng tự hiệu chỉnh của “tư bản” hoá ra không có dấu hiệu gì cho sự khủng hoảng.
    Tại Liên Xô thì không được như vậy. Nhà kinh tế học Xô viết xuất sắc Tatyana Zaslavskaya viết:
    “Trong khoảng 12 đến 15 năm tới chúng ta sẽ chứng kiến sự suy giảm đáng kể trong tăng trưởng kinh tế quốc gia. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 8 con số tăng trưởng là 7.5%, đối với lần thứ 9 chỉ còn 5.8%, đến lần thứ 10 con số này rớt xuống 3.8%, trong những năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ 11 con số này chỉ còn là 2.5% (trong khi dân số tăng 0.8%/năm). Tăng trưởng suy giảm làm suy giảm mức sống của người dân và làm cho việc hiện đại hoá quá trình sản xuất gặp khó khăn” (13)
    Hơn thế nữa bà chỉ ra nguyên nhân của sự khủng hoảng này là “Sự tụt hậu của các quan hệ sản xuất phản ánh trong cơ chế quản lý kinh tế nhà nước tập trung quan liêu bao cấp, thực sự nó đã không theo kịp sự phát triển của lực lượng lao động.” (14)
    Một kết luận như thế chưa bao giờ được áp dụng cho một nước xã hội chủ nghĩa (bởi theo học thuyết của Marx, không thể có sự mâu thuẫn giữa hệ thống quan hệ sản xuất và sự phát triển của lực lượng sản xuất trong chủ nghĩa xã hội, bởi hệ thống quan hệ sản xuất chủ nghĩa xã hội là dạng quan hệ sản xuất tiên tiến nhất. Sự mâu thuẫn này chỉ có thể xuất hiện trong xã hội phong kiến và tư bản. Và như đã nói ở trên sự mâu thuẫn này theo Marx sẽ tất yếu dẫn đến cách mạng vô sản). Theo Marx một kết luận như trên chỉ có thể áp dụng cho một xã hội tư bản. Mặc dù vậy, vẫn theo Tatyana Zaslavskaya, “điều này sẽ dẫn đến một giai đoạn đại hồng thuỷ trong kinh tế và chính trị, nhằm đổi mới triệt để các quan hệ sản xuất với phương thức sản xuất mới, nếu không sẽ dẫn tới sự sụp đổ hoàn toàn bởi cuộc cách mạng xã hội” (15)
    “Thay đổi và cải tổ mạnh mẽ việc quản lý nền kinh tế sẽ làm ảnh huởng tới nhiều nhóm xã hội, đối với nhóm này cải tổ đem lại sự cải thiện đời sống của họ, đối với nhóm kia đó có thể làm mất vị trí xã hội của họ”. Vậy cái nhóm xã hội đó (mà gọi một cách không lịch sự thì là “kẻ thù giai cấp”) từ đâu mà ra khi mà chủ nghĩa xã hội đã cắm rễ đến 70 năm trên đất nước của giai cấp công nhân và nông dân vậy? Rõ ràng nhóm xã hội này vẫn luôn tồn tại ở đó với tư cách là “những người cận vệ tiên tiến nhất của giai cấp vô sản”.
    Andrei Nuikin, một nhà kinh tế học Xô viết khác viết “Chưa bao giờ kể cả thời Ivan bạo chúa, hay trong bất cứ quốc gia nào hiện nay mà không có quốc hữu hoá tài sản tư nhân, mà chính quyền hành chính có thể điều khiển được toàn bộ tư liệu sản xuất. Không phải không có cơ sỏ khoa học khi mà vào những năm 20 của thế kỷ, người ta đã bắt đầu nói đến sự hình thành trong xã hội ta một “giai cấp quan chức quan liêu”. Sự sở hữu tư liệu sản xuất dẫn đến sự phân chia xã hội ra thành các giai cấp” (16)
    * * *
    Vì vậy sau khi so sánh hai nền kinh tế của Liên Xô và Mỹ và các khuynh hướng kinh tế-xã hội của chúng theo các tiêu trí đưa ra bởi Marx, chúng tôi buộc phải đi đến kết luận rằng chính những nước xã hội chủ nghĩa đi theo học thuyết của Marx, lại đã và đang tạo ra mô hình xã hội “tư bản” bệnh hoạn và suy đồi mà Marx đã tưởng tượng ra. Chính trong các xã hội xã hội chủ nghĩa sự phân chia giai cấp diễn ra: giai cấp của những kẻ bóc lột và giai cấp của những người bị bóc lột, giai cấp của những kẻ tước đoạt và giai cấp của những người vô sản. Cũng chính trong các xã hội xã hội chủ nghĩa, những độc quyền kinh tế được nảy nở và sinh sôi, dẫn đến việc biến nền kinh tế theo hướng tự cung tự cấp và kéo theo sự lãng phí và khai thác đến kiệt cùng những nguồn tài nguyên khoáng sản quốc gia.
    Cuối cùng chính hệ thống xã hội chủ nghĩa lại là hệ thống quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất tiền tiến. Chính vì vậy sự khủng hoảng mà Marx tiên đoán không diễn ra ở các nước có nền kinh tế thị trường tự do mà ở chính những nước xã hội chủ nghĩa theo Marx. Trong thời đại của chúng ta, một trăm năm sau khi Marx qua đời, người ta vẫn có thể thấy những dấu hiệu và bóng dáng của cuộc cách mạng vô sản vĩ đại mà ông đã tiên liệu là sẽ xảy ra nhưng mà là xảy ra ở thế giới của các nước xã hội chủ nghĩa từ Havana đến Hà nội, từ Belgrade đến Bắc Kinh.
    Đối mặt với ngày tận thế đang ngày một cận kề, những nhà lãnh đạo cộng sản đã sẵn sàng chấp nhận những tội lỗi và sai lầm trong quá khứ, sẵn sàng “cải tổ” và xin lỗi, nếu như xin lỗi có thể thay đổi mọi thứ trong hiện tại. Họ thậm chí sẵn sàng hy sinh cả sự tinh khiết của hệ tư tưởng cao cả mà họ tôn thờ, sẵn sàng uốn cong nó theo yêu cầu của tình hình. Vậy thì lời giải nằm ở đâu? làm sao có thể đưa được sự cạnh tranh “tư bản” vào những ngành, nhà máy, xí nghiệp lớn nhất thế giới và thường là độc quyền duy nhất trong quốc gia? giải quyết ra sao những con đập, con kênh, hồ nhân tạo khổng lồ đã được tạo ra với cái giá là sự huỷ hoại thiên nhiên môi trường mà lượng điện cung cấp vẫn không đủ cho xã hội? làm thế nào mà thiết lập được nền kinh tế thị trường trong một xã hội mà trong cả 60 năm chưa hề có thị trường cũng như chưa có nền kinh tế theo đúng nghĩa? đâu là thời điểm bắt đầu tiến hành tháo dỡ chủ nghĩa xã hội một cách từ từ, khi mà mỗi một ngày trôi qua là lại một ngày nó đến gần hơn đến vực thẳm? Cho nên, như đã nói ở trên, cho dù có phép lạ làm biến mất hoàn toàn những người cộng sản đi nữa thì cuộc khủng hoảng vẫn còn đó và không thể giải quyết được trong ngày một ngày hai.
    Không ai có lỗi ở đây cả, không phải lỗi của Stalin, không phải lỗi của Brezhnev, thậm chí cũng chẳng phải là lỗi của Lenin. Họ có phát minh ra việc “tước đoạt lại kẻ tước đoạt” hay “đấu tranh giai cấp” đâu. Không phải lỗi của ai cả, trừ Marx, vì một sai lầm nhỏ; con người cuối cùng không giống như sâu bọ và không phản ứng lại điều kiện xã hội. Nhân loại không đặt công bằng lên trên tự do. Nhưng mà ai có thể biết trước được điều đó cơ chứ?
    III. Xem xét dưới góc độ con người và thiên nhiên
    Ngoài một xã hội biến dạng, một nền kinh tế tiêu điều, và tài nguyên cạn kiệt, những người cộng sản còn để lại những di sản gì? đó là đất đai nứt nẻ, những đầm lầy hôi thối, một cộng đồng dân cư bị băng hoại, mà trong đó những công dân lao động hăng say chăm chỉ gần như bị tuyệt chủng. Bởi không như một chế độ độc tài thông thường, chế độ toàn trị không chỉ đơn thuần là dùng khủng bố để bám lấy quyền lực (tất nhiên điều này thì nó thường làm rất tốt) mà còn tạo ra một công nghệ xã hội đạt được bằng khủng bố. Tất cả mọi mặt trong cuộc sống, tâm lý của xã hội đều phải tuân theo công nghệ xã hội này. Chẳng phải vì chúng gây hại cho những kẻ cai trị, mà vì chế độ toàn trị luôn mong muốn thay đổi đến từng tế bào của xã hội. Đó là một kiểu “chọn lọc không tự nhiên” (“unatural selection”) với “sự tồn tại của những phần tử không mạnh khoẻ (“survival of the unfittest” – ngược với thuyết chọn lọc tự nhiên (natural selection) của Darwin với sự tồn tại của những phần tử mạnh khoẻ biết thích nghi (survival of the fittest) – ND). Nhiều kỹ năng và ngành nghề bị biến mất, sự sợ hãi dường như đã ăn vào Gene. Chúng ta không nên quên rằng ở Liên Xô đã có ba thế hệ sinh ra và lớn lên trong chế độ hiện tại, họ được chứng kiến sự huỷ hoại từ từ đất nước, nền văn hoá, và con người (đối với các nước xã hội chủ nghĩa khác là khoảng hai thế hệ). Không giống như ở Hungary hay Trung Quốc, ở Liên Xô không có nông dân, chỉ có xã viên hợp tác xã trong ngành nông nghiệp. Thế hệ những người nông dân biết cách tự canh tác trên đất đai của mình đã chết hết. Đó chính là một trong những lý do tại sao cuộc cải tổ và tháo dỡ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực nông nghiệp có thể thành công ở Trung quốc, nhưng khó có thể ở Liên Xô.
    Không ai có thể biết được chính xác con số những nạn nhân bị sát hại của chế độ cộng sản ở Liên Xô kể từ cách mạng tháng 10: 30, 50, thậm chí có thể là 60 triệu, nhưng chắc chắn con số đủ lớn để gọi bằng từ “diệt chủng”. Và chúng ta cũng không nên quên một lượng khổng lồ những công dân đã bị giam cầm trong các trại lao động khổ sai, mà ở đó lao động là cưỡng bức, là theo luật, cho nên mọi lao động ở đó đối với họ đều là sự trừng phạt. Ngay cả các điều kiện lao động ở ngoài xã hội cũng không khác mấy so với lao động cưỡng bức, nó tạo ra những thói quen tương tự của người lao động.
    Bên cạnh đó chính quyền Xô viết luôn tìm cách làm cho dân chúng thấy rằng họ không thể chiến thắng được chính quyền toàn trị, không có lối thoát nào ra khỏi cuộc sống đau khổ hiện tại của họ cả về mặt thể xác lẫn tâm hồn, không có phương cách cải thiện cuộc sống cho họ kể cả việc chốn ra nước ngoài. Mọi cố gắng đều bị chế độ toàn trị làm cho thành vô vọng. Điều này cũng tương tự như hiện tượng “bất lực do huấn luyện” (learned helplessness) trong tâm lý học thực hành. Trong đó khi một sinh vật thí nghiệm bị ngăn cản và trừng trị mỗi khi nó tìm cách chốn chạy, dẫn đến làm cho sinh vật này lâm vào tình trạng tâm lý bất lực và không có khả năng tìm cách chốn chạy ngay cả khi có cơ hội. Sự thật là đã ba thế hệ qua, người dân Xô viết bị buộc phải nghe và chỉ nghe những điều giả dối trên các phương tiện thông tin tuyên truyền. Sự mẫu thuẫn trái nghịch thường xuyên giữa thực tế xã hội và thông tin tuyên truyền trong quốc gia toàn trị, bản thân nó, đã có thể tạo ra những cú âp tâm lý ghê gớm, chưa nói đến những nỗi sợ hãi bất tận, sự nghi kỵ và nỗi khổ đau.
    Hiện trạng con người hiện nay ở Liên Xô (và đúng với tới một mức độ nào đó với các nước toàn trị khác), không phải chỉ là thờ ơ và lãnh cảm, mà là suy kiệt về mặt tâm lý, một sự mệt mỏi thân xác đến tận cùng. Dấu hiệu của nó được thể hiện ở tỷ lệ trẻ sơ sinh chết cao, tỷ lệ sinh thấp (số âm ở một số nước công hoà và gần 0 ở Nga), tuổi thọ trung bình là 60. Một tỷ lệ rất cao trẻ sơ sinh khi sinh ra đã bị dị dạng cả về thể xác lẫn trí não (6-7% ở cuối thập niên 70 và nếu ngoại suy đến cuối thập niên 90 con số này sẽ là 15%). Đó là hậu quả của sự ô nhiễm môi trường và tệ nạn nghiện rượu. Một tài liệu mật bị đánh cắp và đưa ra ngoài Liên Xô vào năm 1985 đã công bố con số 40 triệu người được “cấp chứng nhận y tế vì nghiện rượu”, con số ngoại suy cho năm 2000 sẽ là 80 triệu.
    Thậm chí ngay cả thiên nhiên cũng đã quá cạn kiệt sau 73 năm cai trị của chính quyền cộng sản. Không giống như trong các nước phương Tây, nơi mà ý kiến và phong trào của quần chúng có thể ngăn không cho các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp gây ô nhiễm môi trường một cách quá đáng, ở Liên Xô, không có một lực lượng nào dám đứng ra để đấu tranh với chế độ toàn trị để bảo vệ môi trường. Bởi vì mệnh đề “con người bảo vệ thiên nhiên” là quá xa lạ đối với triết lý của cách mạng. “Chúng ta đừng đợi thiên nhiên ưu ái, mà hãy lấy sự ưu ái từ thiên nhiên thông qua việc biến đổi nó” - đấy là một khẩu hiệu phổ biến trong chế độ xã hội chủ nghĩa, mà ý nghĩa có nó được cho là, nếu điều kiện cho phép, chúng ta có thể biến quá lê thành quả táo, biến con gà trống thành ngài bộ trưởng. Sáu mươi năm sau, cái triết lý đó đã để lại cho đất nước một thảm hoạ môi trường.
    Vào cuối những năm 70, ô nhiễm không khí đã lên cao đến mức “rất nguy hiểm” ở hơn 1000 thành phố, “mức đe doạ sức khoẻ” ở hơn 100 thành phố, cao hơn gấp 10 lần so với mức “nguy hiểm” ở 10 thành phố. Sự tổn hại cho ô nhiễm không khí và nguồn nước gây ra, theo con số chính thức của chính quyền Xô viết, là 20 tỷ rúp, và con số này đến năm 1990 có thể là 120 tỷ. Những con sông của Liên Xô mang ra biển Baltic lượng chất ô niễm cao hơn 20 lần so với sông Rhine (ở Đức - ND) mang ra biển bắc. Do việc khai khẩn đất đai rất tốn kém, nên chỉ có 8-12% diện tích đất đai bị phá huỷ do khai thác hầm mỏ được khai hoang hàng năm. Vậy nên vào cuối những năm 70 đã có 77,200 dặm vuông đất đai bị phá huỷ vì khai khoáng mà không được khai khẩn trở lại, hàng năm con số này được tăng lên 400 dặm vuông.
    Lượng đất đai còn bị phá huỷ nhiều hơn nữa với việc xuất hiện những biển, hồ nhân tạo nhằm phục vụ cho các nhà máy thuỷ điện. Tổng số diện tích những hồ nhân tạo kiểu này là 46,320 dặm vuông, kéo theo sự xói mòn đất đai làm cho 243,180 dặm vuông những vùng đất phì nhiêu, những đồng cỏ, trở nên gần như không thể canh tác được nữa (với năng xuất mùa màng bị giảm từ 80 đến 90%). Những dự án thuỷ điện khổng lồ nói trên không những phá huỷ những diện tích canh tác phì nhiêu khổng lồ mà còn huỷ hoại cả những con sông, biến chúng thành những cái đầm hôi thối và ô nhiễm. Và cuối cùng những trạm thuỷ điện này vẫn không cung cấp đủ lượng điện cần thiết khi mực nước hạ thấp. Quá trình bay hơi, việc dùng nguồn nước và việc tưới tiêu cho nông nghiệp, và sự bành trướng của các ngành công nghiệp càng làm vấn đề chở nên tồi tệ thêm. Những biển và hồ tự nhiên Aral, Azov, Caspi có thể sẽ biến mất trong thế kỷ tới. Hệ sinh thái biển đen đã bị huỷ hoại rất nhiều và sẽ tiếp tục bị huỷ hoại thêm nữa. Việc thiếu nước trầm trọng sẽ gây ảnh hưởng đến việc trồng các cây nông nghiệp và công nghiệp.
    Một vấn đề nghiêm trọng nữa là nạn phá rừng bừa bãi. Ngay cả chính quyền Xô viết cũng thừa nhận rằng diện tích rừng bị biến mất do con người chặt phá ngang bằng với do cháy rừng, con số đó là khoảng 100,000 dặm vuông mỗi năm. Và hậu quả là ngày càng nhiều vùng đất bị xói mòn hay bị biến thành đầm lầy.
    Diện tích đất bị mất bằng cả diện tích của Anh, Pháp, Italy, Tây Đức, Thuỵ Sỹ, Lucxembua, Bỉ, Hà Lan cộng lại (17). Phải cần khoảng từ 100 đến 200 năm để phục hồi lại chúng.
    * * *
    Kết luận, chúng ta chỉ có thể cố gắng lạc quan hơn. Nếu con người có thể chịu đựng được sự huỷ hoại, đau khổ, trầm luân kéo dài đến thế mà không bị hoàn toàn khuất phục vẫn dám đứng lên vì tự do và phẩm giá, vì sự thật và sự trung thực, thì họ sẽ chịu đựng được cả giai đoạn cuối của cuộc khủng hoảng. Nó có thể phải mất một thế hệ hay hai thế hệ, có thể phải trả một giá rất đắt, nhưng cuộc đấu tranh giải trừ chế độ toàn trị phải chiến thắng. Bởi nếu tâm hồn của con người đã sống sót quá muôn vàn tăm tối, như những ngọn nến không tắt trong gió, thì nó phải là trường tồn.
    Sự im lặng tuyệt đối đã tưởng như là sự phản ứng duy nhất của nhân dân khi chế độ toàn trị bắt đầu thoái trào. Nhưng không phải như vậy, từ biển Baltic đến miền núi vùng Capcadơ, từ sông Danube đến Siberia, những quốc gia thành phần đã đứng lên đòi lại quyền độc lập dân tộc. Ngay cả tại Nga, trong những cuộc “bầu cử” gần đây dù đầy những toan tính, cưỡng bức và dối lừa, lá phiếu của người dân vẫn cho thấy, Đảng cộng sản đã hoàn toàn bị nhân dân tẩy chay. Làn sóng lạm phát, đình công đang gia tăng. Gần đây ngay cả cảnh sát ở Leningrad cũng chuẩn bị đình công. Nói tóm lại tất cả mọi nơi, mọi người dân đều đồng thanh lên tiếng: Chúng tôi muốn có dân chủ. Cái họ muốn không phải thứ “dân chủ xã hội chủ nghĩa” mà là thứ dân chủ truyền thống cho tất cả mọi người. Không ai còn có thể ngăn cản được họ nữa.
    Vết sẹo do một chế độ toàn trị để lại cho xã hội vừa sâu vừa lâu dài. Thật bất hạnh cho một quốc gia nào mà việc nói lên sự thật đã được coi là một hành động anh hùng, thật nhục nhã cho một quốc gia mà việc nói lên sự thật bị coi là hành động điên rồ, bởi ở những nơi đó, những cánh đồng sẽ không thể sản xuất ra bánh mỳ. Thật thống khổ cho một dân tộc nếu tất cả mọi người đã mất đi ý niệm về phẩm hạnh, bởi ở đó sẽ chỉ có thể sinh ra những đứa trẻ què quặt về tâm hồn. Nhưng nếu trong những xã hội ấy, chỉ cần có một người sống khác đi thì nó sẽ không bị diệt vong.
    Đó là lý do tại sao không bao giờ có thể tìm được một định nghĩa đầy đủ cho chế độ toàn trị, bởi mức độ tồi tệ nó gây ra đối với một dân tộc còn hơn cả một cuộc thảm sát hạt nhân.
    ___________________________
    Về tác giả: Vladimir Bukovsky là một nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng người Nga đang sống tại phương Tây. Ông được xem như là một chuyên gia, một nhà tiên tri nền kinh tế chính trị Liên Xô đương đại. Sau khi tốt nghiệp đại học tổng hợp Matxcơva, Bukovsky đã tích cực tham gia đấu tranh vì quyền con người và đòi tự do cho những tù nhân chính trị đang bị giam cầm ở Liên Xô. Chính vì vậy ông nhanh chóng trở thành cái gai trong mắt chính quyền. Trong vòng 14 năm từ năm 21 tuổi đến 34 tuổi, ông đã nhiều lần bị bắt, bị giam trong các nhà tù, trại lao động khổ sai, và cả bệnh viện tâm thần. Cuối cùng ông bị trục xuất khỏi Liên Xô vào năm 1976.
    Sau khi rời khỏi Liên Xô, Bukovsky đã học qua các trường Cambridge và Standford và tham gia nghiên cứu tại khoa tâm lý học thuộc đại học Standford. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách như: Short Stories of Russian Other Writers (1970), Oposition – Eine Neue Geisteskrandheit in des USSR (1972); A Manual on Psychiatry for Dissenters (1974); cuốn tiểu sử tự viết: To Build a Castle: My Life as a Dissenter (1978); Cette lacininante douleur de la liberte (1981) [Bản dịch tiếng Anh: “To choose freedom” (1987)]; và The Peace Movement and the Soviet Union (1982).
    ____________________________
    Chú thích
    1. Karl Marx, Tư bản luận, tập 1 (nhà xuất bản Maxcơva 1974), trang 474-475.
    2. Trong buổi trả lời phỏng vấn đài Châu âu tự do vào ngày 29-5-1989.
    3. Karl Marx, Một đóng góp vào việc phê phán kinh tế chính trị, Marx & Angels tuyển tập, tập 1 (nhà xuất bản Maxcơva 1973), trang 504.
    4. Tư bản luận, trang 454.
    5. Tư bản luận, trang 714-715.
    6. Tư bản luận, (nhà xuất bản Penguin Books, 1976), trang 129.
    7. Phê phán cương lĩnh Gotha, Marx & Angel tuyển tập, tập 2, (nhà xuất bản Maxcơva 1962), trang 33.
    8. Các con số lấy từ cuốn The Statesman’s Year-Book: Statistical and Historical Annual of the State of the World for the Year 1988-1989, nhà xuất bản Macmillan.
    9. Trud, 26-6-1989.
    10. V. Selyunin, “Tempy Rosta na Vesakh Potreblenia”, Socialisticheskaya Industria, 5-1-1988.
    11. V. Tomashkevich, Socialisticheskaya Industria, 30-8-1988.
    12. Kommunist, 11 (1985), trang 22.
    13. Tài liệu Novosimbirk, thư viện Samizdat #5042, trang 3.
    14. Tài liệu Novosimbirk, thư viện Samizdat #5042, trang 4.
    15. Tài liệu Novosimbirk, thư viện Samizdat #5042, trang 4.
    16. Novy Mir, #1, 1989.
    17. Boris Komarov, Sự huỷ hoại thiên nhiên ở Liên Xô, (White Plains: Sharpe 1980).
    Nguồn: https://www.danluan.org/tin-tuc/20120909/chu-nghia-toan-tri-trong-con-khung-hoang-lieu-co-the-chuyen-bien-em-tham-de-den-v-0
     
    Xem trang web chính thức tại Tinhthankhaiminh.org