Nguyễn
Kiến Giang
6.
Cách nhìn của Samuel Huntington
Một
số người nghiên cứu cho rằng cách tiếp cận của A. Tofler là “cách tiếp cận theo
cận văn minh”, dùng sự phát triển từ văn minh này sang văn minh khác để lý giải
các quá trình diễn ra trên thế giới. Nhưng cách tiếp cận theo văn minh không chỉ
có ở riêng Tofler, nó còn có ở những tác giả khác. Có điều là nếu ở A. Tofler,
khái niệm văn minh chủ yếu dựa vào trình độ kỹ thuật và công nghệ, thì ở một số
tác giả khác, khái niệm đó dựa vào những nền tảng khác. Ở đây, chúng tôi xin giới
thiệu “cách tiếp cận theo văn minh” của Samuel Huntington, giáo sư và giám đốc
Viện Nghiên cứu Chiến lược Olin thuộc trường Đại học Harvard, với cách nhìn độc
đáo của ông. Ông trình bày quan niệm của mình trong một bài viết đăng trên tạp
chí Foreign Affairs (Mỹ), số mùa hè năm 1993, dưới nhan đề “Sự
xung đột tương lai của các nền văn minh”, một bài viết gây tiếng vang mạnh mẽ ở
phương Tây, Huntington lấy các tôn giáo làm nền tảng cho các nền văn minh khác
nhau. Theo ông, chính trị thế giới đang bước vào một kỷ nguyên mới, trong đó nguyên
nhân căn bản của các cuộc xung đột sẽ không còn là hệ tư tưởng hay kinh tế nữa,
mà là do những văn minh khác nhau. Tất nhiên, những nền văn minh này không đứng
nguyên, chúng phát triển và thoái hóa, chia và hợp, và có những nền văn minh
đang biến mất. Ông nói, người phương Tây thường có xu hướng cho rằng các quốc
gia - dân tộc là những diễn viên chính trên vũ đài thế giới. Thật ra, điều đó
chỉ có trong vài thập kỷ gần đây. Những không gian rộng lớn nhất của lịch sử là
lịch sử của các nền văn minh, và thế giới đang quay về với mô hình đó. Bản sắc
của các nền văn minh sẽ ngày càng quan trọng hơn, và thế giới ở một mức độ lớn
sẽ bị chi phối bởi những tác động qua lại giữa bảy hay tám nền văn minh chính:
phương Tây, Khổng giáo, Nhật Bản, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Chính thống giáo Slave,
Mỹ Latin và có thể là châu Phi nữa. Ranh giới phân chia giữa những nền văn minh
đó sẽ là tiền tuyến trong tương lai.
Tại sao như vậy? Ông trả lời: “Những khác biệt giữa các nền văn minh là những khác biệt cốt yếu và đụng tới lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, truyền thống và nhất là tôn giáo. Các nền văn minh khác nhau có những quan điểm khác nhau về những liên hệ giữa con người và Thượng đế, giữa công dân và nhà nước, bố mẹ và con cái, tự do và uy quyền, bình đẳng và thứ bậc. Những khác biệt ấy là sản phẩm của một lịch sử lâu đời. Chúng sẽ không sớm biến mất đâu” (Liberation, 25.9.1993). Ý thức về nền văn minh tăng lên; do những tiếp xúc giữa các dân tộc thuộc những nền văn minh khác nhau đang tăng lên, và do những thay đổi xã hội và kinh tế làm mất đi những bản sắc địa phương lâu đời, khiến cho con người càng cố bám giữ những bản sắc đó. Chẳng hạn, người Mỹ phản ứng một cách tiêu cực đối với đầu tư của Nhật hơn là đối với đầu tư của Canada và các nước châu Âu vào nước mình.
Tại sao như vậy? Ông trả lời: “Những khác biệt giữa các nền văn minh là những khác biệt cốt yếu và đụng tới lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, truyền thống và nhất là tôn giáo. Các nền văn minh khác nhau có những quan điểm khác nhau về những liên hệ giữa con người và Thượng đế, giữa công dân và nhà nước, bố mẹ và con cái, tự do và uy quyền, bình đẳng và thứ bậc. Những khác biệt ấy là sản phẩm của một lịch sử lâu đời. Chúng sẽ không sớm biến mất đâu” (Liberation, 25.9.1993). Ý thức về nền văn minh tăng lên; do những tiếp xúc giữa các dân tộc thuộc những nền văn minh khác nhau đang tăng lên, và do những thay đổi xã hội và kinh tế làm mất đi những bản sắc địa phương lâu đời, khiến cho con người càng cố bám giữ những bản sắc đó. Chẳng hạn, người Mỹ phản ứng một cách tiêu cực đối với đầu tư của Nhật hơn là đối với đầu tư của Canada và các nước châu Âu vào nước mình.
Thêm
vào đó, ở phần lớn các vùng trên thế giới, thay thế cho những hệ tư tưởng cũ đã
phá sản là các tôn giáo, thường là dưới hình thức những phong trào bảo vệ toàn
vẹn tính chính thống của chúng (trên báo chí thường gọi là các phong trào “toàn
thống”), như trong Kitô giáo phương Tây, đạo Do Thái, đạo Phật, Ấn Độ giáo và
nhất là Hồi giáo. “Phi thế tục hóa” (desecularisation) là một nét trong đời sống
cuối thế kỷ XX.
Ý
thức về văn minh riêng còn tăng lên vì vào lúc phương Tây đang ở đỉnh cao của sự
hùng cường, thì các nền văn minh không phải phương Tây bắt đầu trở lại cội nguồn:
“châu Á hóa” ở Nhật, “ấn Độ giáo hóa” ở Ấn Độ, “tái Hồi giáo hóa” Trung Đông và
“Tây hóa” ở Nga... Phương Tây càng muốn áp đặt những giá trị của mình về dân chủ
và chủ nghĩa tự do như những giá trị phổ biến, càng muốn duy trì ưu thế quân sự
và những lợi ích kinh tế của mình, thì sự phản ứng của các nền văn minh khác
càng tăng lên.
S.
Huntingon cho rằng các trục chính của chính trị thế giới sẽ là sự xung đột giữa
“phương Tây và phần thế giới còn lại” và những sự chống trả của những nền văn
minh không phải phương Tây đối với sức mạnh và những giá trị của phương Tây. Ví
dụ nổi bật nhất của sự hợp tác chống phương Tây là mối liên hệ đang được thiết
lập giữa các quốc gia Khổng giáo và Hồi giáo để thách thức lại sức mạnh và những
giá trị của phương Tây.
Những đặc trưng và những khác biệt về văn hóa thường ít bị thay đổi hơn và, do đó, việc loại bỏ và giải quyết chúng thường khó khăn hơn những đặc trưng và những khác biệt về chính trị và kinh tế. Ở Liên Xô cũ, chẳng hạn, người cộng sản có thể trở thành người dân chủ, người giàu thành người nghèo và ngược lại, nhưng người Nga theo Chính thống giáo không thể trở thành người Estonia theo Gia tô giáo. Một người Pháp có thể là nửa Pháp nửa Ảrập, hoặc là công dân của hai nước, nhưng rất khó trở thành nửa Gia tô giáo nửa Hồi giáo.
Những đặc trưng và những khác biệt về văn hóa thường ít bị thay đổi hơn và, do đó, việc loại bỏ và giải quyết chúng thường khó khăn hơn những đặc trưng và những khác biệt về chính trị và kinh tế. Ở Liên Xô cũ, chẳng hạn, người cộng sản có thể trở thành người dân chủ, người giàu thành người nghèo và ngược lại, nhưng người Nga theo Chính thống giáo không thể trở thành người Estonia theo Gia tô giáo. Một người Pháp có thể là nửa Pháp nửa Ảrập, hoặc là công dân của hai nước, nhưng rất khó trở thành nửa Gia tô giáo nửa Hồi giáo.
Cuối
cùng, chủ nghĩa khu vực kinh tế tăng lên cũng làm cho ý thức về văn minh riêng
cũng tăng lên. Vả chăng, chủ nghĩa kinh tế khu vực chỉ có thể thành công khi nó
bám rễ vào nền văn minh chung của khu vực. Cộng đồng châu Âu dễ hình thành hơn
vì nó dựa vào văn hóa phương Tây và Kitô giáo phương Tây, nhưng ở Đông Á một cộng
đồng kinh tế như vậy khó hình thành hơn vì ở đây có những nền văn minh khác
nhau.
Xuất
phát từ cách nhìn thế giới theo “văn minh - tôn giáo” ấy, S. Huntington cắt
nghĩa những xung đột đang diễn ra ở nhiều khu vực trên thế giới: giữa Hồi giáo
và phương Tây, giữa các dân cư Hồi giáo và Chính thống giáo ở Nam Tư cũ, giữa
người Azerbaijan và Armenia, v.v... Theo ông, những xung đột giữa các nền văn
minh đã có từ lâu đời. Giữa phương Tây và Hồi giáo, sự xung đột đã kéo dài 1300
năm và chắc chắn không kết thúc sớm. “Một cuộc chiến tranh thế giới tới đây, nếu
nổ ra, sẽ là một cuộc chiến tranh giữa các nền văn minh”, ông nhấn mạnh.
Từ
những nhận định trên đây, S. Huntington đi tới những khuyến cáo về chính trị đối
với phương Tây: cần đi tới một sự hợp tác lớn hơn và một sự thống nhất cao hơn
bên trong nền văn minh của mình, đặc biệt giữa châu Âu và Bắc Mỹ; đưa các xã hội
Đông Âu và Mỹ Latin có văn hóa gần gũi với phương Tây hội nhập với mình; duy
trì các quan hệ chặt chẽ với Nga và Nhật; ủng hộ các nhóm tán thành những giá
trị và lợi ích phương Tây trong các nền văn minh khác; ủng hộ tổ chức quốc tế
nào bảo vệ những giá trị và lợi ích đó. Đặc biệt, ông khuyến cáo phải hạn chế sự
gia tăng sức mạnh quân sự của những nền văn minh nào có tiềm năng đối địch với
phương Tây, nhất là văn minh Khổng giáo và văn minh Hồi giáo. Đó là về ngắn hạn.
Còn về lâu dài, phương Tây cần tìm ra những phạm vi thỏa thuận rộng lớn hơn với
những nền văn minh khác có những sức mạnh gần ngang mình nhưng lại có những giá
trị và lợi ích rất khác mình. Điều đó đòi hỏi phương Tây phải hiểu sâu sắc hơn
những nền tảng tôn giáo và triết học của những nền văn minh khác, tìm ra những
yếu tố giống nhau giữa phương Tây và những nền văn minh ấy. Kết luận của S.
Huntington là: “Trong một tương lai có thể nhìn thấy, sẽ không có một nền văn
minh toàn thế giới, mà là một thế giới trong đó những nền văn minh khác nhau phải
học cách sống chung với nhau” (Libération, 23-9-1993).
Cách
nhìn độc đáo của S. Huntington thật đáng suy nghĩ, vì nó đụng tới những chiều
sâu không thể bỏ qua của sự phát triển trên thế giới hiện nay và sau này. Nhưng
rõ ràng ở đây có một sự cường điệu nào đó, thể hiện một tâm lý bi quan nào đó của
người đề xướng ra nó. Chỉ ít lâu sau khi Huntington công bố những quan điểm ấy,
đã có những phản ứng tiêu cực. Josef Joffe, một nhà bác học nổi tiếng, lập tức
lên tiếng trên tờ Südddeusche Zeitung (CHLB Đức) để phản bác lại.
Đúng là đang có một bóng ma bay lượn trên bầu trời phương Tây, bóng ma chiến
tranh giữa các nền văn hóa, buộc mỗi người phải đặt ra câu hỏi: “Anh đứng về
phía nào?” và “Anh là ai?”, dựa vào sự tự ý thức của con người, vào văn hóa, mà
không phải vào hộ chiếu và thẻ đảng nữa. Thế nhưng, đây là sự xung đột giữa những
nền văn hóa nào? Thoạt nhìn, cách trình bày của S. Huntington có vẻ là đúng,
nhưng theo J. Joffe trên thực tế không phải như vậy. Một bức tranh phức tạp hơn
hiện lên. Một mặt, sự xung đột giữa các nền văn minh có từ lâu đời rồi, sự xung
đột giữa Đông và Tây cũng đã có từ 1300 năm nay, những điều đó không có gì mới.
Mặt khác, nhìn kỹ các cuộc xung đột, thì đó không phải là giữa các nền văn
minh. Giữa Trung Quốc và Nhật Bản, chẳng hạn, đó không phải là xung đột về Khổng
Tử, mà là về những tham vọng Thái Bình Dương. Ngay bên trong mỗi nền văn minh,
có những lợi ích xung đột nhau. Điều đó rất đúng cả với trường hợp Hồi giáo. Giữa
các nước thuộc văn minh Hồi giáo, có những chia rẽ và xung đột sâu sắc giữa các
quốc gia Hồi giáo và bên trong các quốc gia đó: những cuộc đảo chính liên tiếp
xảy ra, những cuộc xung đột kéo dài của “tất cả chống lại tất cả” ở Libya, và
giữa các quốc gia Hồi giáo (Ai Cập chống Jemen, Syria chống Jordan, Iraq chống
Kuwait, chiến tranh giữa Iraq và Iran). Theo J. Joffe, không có một thứ “Hồi
giáo” nói chung. Thực chất của vấn đề không phải là ở cuộc chiến tranh giữa các
nền văn hóa, mà là ở cuộc đấu tranh để phân bố lại phạm vi ảnh hưởng, cuộc đấu
tranh giành quyền lực. (Xem bài “Sẽ không có những xung đột giữa các nền văn
hóa, mà là...”, Za rubezhom số 36, 1993, tr. 11). Nhưng với những
sự phân tích khác nhau, J. Joffe và S. Huntington cùng có chung một cách nhìn
bi quan gần giống nhau về tương lai gần của thế giới. Chúng ta đã biết điều đó ở
S. Huntington, còn ở J. Ioffe thì đây là kết luận: “Không ai có thể biết chắc
chắn rằng mình có một phương thuốc chữa bách bệnh đối với tất cả những tai họa
đó cả” (như trên).
7.
Cách nhìn của phái xã hội - dân chủ
Từ
đầu thế kỷ XX, như đã biết, phong trào công nhân thế giới - trước hết ở châu Âu
- chia thành hai trào lưu lớn: cộng sản và xã hội - dân chủ. Trong hoàn cảnh thế
giới hiện nay, khi trào lưu cộng sản lâm vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc, thì
trào lưu xã hội - dân chủ vẫn tiếp tục tồn tại với những ảnh hưởng lớn mạnh,
tuy có giảm đi phần nào ở một số nước (Pháp, Thuỵ Điển, ý, v.v...). Những biến
đổi trên thế giới đặt ra cho các đảng xã hội - dân chủ tập hợp với nhau trong
Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa những thách đố lớn về tư tưởng và chính trị. Tháng
chín 1992, Đại hội XIX Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa đã thảo luận và thông qua một
loạt văn bản quan trọng nhằm trả lời những thách đố ấy.
Đại
hội họp ở thành phố Berlin, “tượng trưng cho những biến đổi mà những người xã hội
chủ nghĩa dân chủ trên toàn thế giới đấu tranh để đạt tới: quá độ hòa bình từ
chế độ độc tài sang chế độ dân chủ và gạt bỏ những chướng ngại đối với sự thống
nhất nhân dân vì một sự nghiệp chung”. Phái xã hội - dân chủ đánh giá rất tích
cực những biến đổi đang diễn ra và họ coi sự thách đố hiện nay là ở chỗ “bảo vệ
những gì đã đạt được và bảo đảm cho tự do cũng như hứa hẹn một đời sống tốt hơn
trở thành hiện thực đối với tất cả các dân tộc trên thế giới” (Social
Democracy in a Changing World, Văn kiện Đại hội XIX Quốc tế Xã hội Chủ
nghĩa).
Trong
hoàn cảnh thế giới biến đổi ghê gớm hiện nay, Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa tuyên bố
“những giá trị căn bản của chúng tôi không thay đổi”, và những nguyên tắc chỉ đạo
của họ vẫn là tự do, đoàn kết và dân chủ với công bằng xã hội. Họ tỏ ra hân
hoan trước những thành tựu của dân chủ ở Mỹ Latin, Trung và Đông Âu và những
nơi khác. Đồng thời họ lo ngại trước những “bước thụt lùi” như cuộc đàn áp ở
Thiên An Môn, cuộc đảo chính ở Moskva (tháng tám 1991), sự đàn áp ở Miến Điện...,
cũng như trước những vi phạm quyền con người ở nhiều nước. Trong con mắt họ,
các chế độ dân chủ trẻ tuổi ở các nước đang phát triển vẫn bị đe dọa bởi các giới
có thế lực quân sự và kinh tế trước đây, bởi nạn tham nhũng và tình trạng mong
manh của các thể chế dân chủ. ở Đông Âu cũng vậy, các chế độ dân chủ mới đang
phải đối phó với những thách đố rất lớn. Và ở tất cả những nơi mới chuyển sang
chế độ dân chủ, việc xây dựng văn hóa dân chủ là vô cùng khó khăn. Vì hiện nay ở
đó đang nảy nở rất nhiều đảng với ngôn ngữ chính trị mơ hồ (những người cộng sản
tự coi mình là dân chủ hay xã hội chủ nghĩa), đang lan rộng thái độ hoài nghi đối
với chính trị nói chung. Mối đe dọa nguy hiểm nhất là từ giới cầm quyền trước
đây, mhữmg kẻ đang lợi dụng những sự bấp bênh trong quá trình biến đổi và sử dụng
những ngôn từ mị dân và dân tộc chủ nghĩa không thể dung thứ được.
Phái
xã hội - dân chủ đặc biệt chú trọng vấn đề công bằng xã hội. Theo họ, tình
trang không điều tiết được thị trường khi chuyển sang kinh tế thị trường đang dẫn
tới sự phân phối thu nhập và việc làm bất công hơn, cũng như tập trung của cải
lớn hơn. Công bằng xã hội đòi hỏi tăng thêm dân chủ kinh tế trong tất cả các
khu vực sản xuất và dịch vụ, từ cửa hàng, xí nghiệp tới từng vùng và cả nước. Đối
với họ, cả công bằng xã hội lẫn hiệu quả kinh tế đều phải được quan tâm. Các nước
cần có một sự đồng thuận xã hội về mức tiền công và điều kiện lao động, về phân
phối của cải và thu nhập.
Phái
xã hội - dân chủ nhấn mạnh sự hợp tác và đoàn kết quốc tế của một thế giới đang
biến đổi. Vì từng nước chỉ có một lề hành động chật hẹp trong thế giới ngày
càng phụ thuộc lẫn nhau, nên sự hợp tác vùng và quốc tế là cực kỳ quan trọng để
đạt tới hòa bình, phát triển và bảo vệ môi trường. An ninh quốc gia phải dựa
vào những cố gắng vì an ninh chung. Sự kết thúc “chiến tranh lạnh” đã mở ra những
cơ hội to lớn và những mục tiêu mới cho sự hợp tác vùng và quốc tế. Ngày nay
khi sự đối đầu về hệ tư tưởng và quân sự đã bị vượt qua, các chính phủ, giới
kinh doanh, các công đoàn và các tổ chức tình nguyện phải tập trung khắc phục
những phân chia Nam - Bắc và Đông - Tây. Các nước phát triển có những cơ hội tốt
nhất và trách nhiệm lớn nhất về mặt này. Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng
thế giới trở thành những tổ chức thật sự toàn cầu phải được cải cách để phản
ánh tốt hơn những nguyên tắc dân chủ và sự cân bằng lợi ích đúng hơn giữa nước
giàu và những nước nghèo. Chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa toàn thống là rất tai
hại cho sự hợp tác hòa bình, phải được ngăn chặn. Vấn đề bảo vệ môi trường hiện
nay càng phải được chú trọng hơn.
Quốc
tế Xã hội Chủ nghĩa đưa ra những phân tích và những quan điểm về nền kinh tế thế
giới nhằm thiết lập một sự “đối tác toàn cầu vì sự phát triển vững chắc”. Với
việc xóa bỏ sự phân chia Đông - Tây, đã xuất hiện một thế giới nhiều cực về
chính trị và kinh tế. Việc xây dựng trật tự toàn cầu mới phải dựa vào tính nhiều
cực ấy, đặc biệt phải tính đến sự phân chia ngày càng tăng giữa những nước đang
hưởng lợi về tiến bộ kinh tế và những nước đang bị đe dọa đẩy ra ngoài lề ngày
càng tăng. Một sự phát triển không đều sẽ đặt dân chủ vào sự hiểm nghèo, dẫn tới
chủ nghĩa dân tộc chính trị và tạo ra những cơ sở của nạn nghèo khổ và suy
thoái môi trường. Cần bảo đảm một sự điều chỉnh theo hướng nhân đạo. Các nước
đang cải cách phải đạt tới mức tăng trưởng vững bền và thực hiện các chương
trình chống nghèo khổ. Phái xã hội dân chủ nhấn mạnh lại truyền thống của chế độ
dân chủ - xã hội dựa vào kinh tế hỗn hợp, nhà nước phúc lợi và hợp tác quốc tế
vững chắc. Kinh tế thị trường sử dụng các nguồn lực có hiệu quả hơn, cũng như
thuận lợi hơn cho sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Nhưng nhà nước phải điều chỉnh
những nhược điểm của nó, thiết lập một hệ thống thuế và điều tiết có hiệu quả
và bình đẳng, chú trọng cơ cấu hạ tầng công cộng, khởi xướng sự phát triển nhân
đạo và hoàn thiện công bằng xã hội.
Một
thách đố lớn của thời đại, theo những người xã hội - dân chủ, là bảo vệ môi trường.
Ngày nay không thể nói tới phát triển mà không đụng tới vấn đề môi trường. Về mặt
này các nước công nghiệp phải chịu trách nhiệm đặc biệt vì gây ô nhiễm nhiều nhất:
một phần năm dân số thế giới gây ra tới 4/5 tổn hại cho môi trường. Sự kết thúc
của chiến tranh lạnh tạo ra khả năng chuyển những nguồn lực trước đây giành cho
vũ trang sang cho phát triển.
Trong
hàng ngũ Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa, đang có thêm những bộ phận mới: những người
chuyển từ lập trường cộng sản sang lập trường xã hội - dân chủ (đảng Dân chủ
cánh tả Italia, đảng Dân chủ cánh tả Ba Lan, v.v...). Trong số đó có cả
Gorbachev cựu tống bí thư ĐCSLX. Những người này không những đã chia sẻ các
quan điểm xã hội - dân chủ, mà từ kinh nghiệm bản thân, còn phát biểu về những
giá trị của chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh thế giới mới. Tại đại hội XIX Quốc
tế Xã hội Chủ nghĩa, M. Gorbachev phát biểu một bài nhan đề Thế giới
trong bước ngoặt, thể hiện tư tưởng đó. Bên cạnh những vấn đề của thế giới
nói chung (khủng hoảng toàn diện của nền văn minh hiện nay và sự mở đầu một nền
văn minh mới, vấn đề sống còn của loài người trước những nguy cơ lớn như thảm họa
hạt nhân, bùng nổ dân số, môi trường sinh thái, vấn đề toàn cầu hóa các quá
trình thế giới, chủ nghĩa dân tộc hiếu chiến và những vấn đề khác), ông đặc biệt
phân tích những lý do khiến cho chủ nghĩa công sản bị phá sản, đồng thời cũng bảo
vệ những giá trị xã hội chủ nghĩa trong thế giới hiện nay. Theo chính lời ông,
hiện đang có những người lên án ông phản bội chủ nghĩa xã hội, song cũng có những
người phê phán ông vì ông trung thành với tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Câu trả lời
của ông là: “Nhà nước dựa vào hệ tư tưởng cộng sản lúc đầu đã được sử dụng có
hiệu quả trong một thời kỳ lịch sử nào đó để hiện đại hóa đất nước. Nhưng cuối
cùng nó bộc lộ là không có sức sống về mặt lịch sử. Sự tan rã bên trong của hệ
thống được đẩy nhanh hơn do tác động của sự cô lập và tự cô lập bên ngoài không
thể tránh khỏi đối với nó”. Cải tổ chính là sự lựa chọn cần thiết và đúng đắn để
tránh khỏi một sự phá sản chắc chắn. Sự sụp đổ của các chế độ toàn trị ở Liên
Xô và nhiều nước khác đã làm nổi rõ nhiều điều trước đây bị che đậy. Nó chứng tỏ
toàn thế giới đang trải qua một thời kỳ chuyển tiếp sang một nền văn minh mới bắt
đầu hình thành. Do đó quan niệm của ông về chủ nghĩa xã hội khác với sơ đồ quyết
định luận của chủ nghĩa Mác. Cần quan niệm chủ nghĩa xã hội như một giá trị hợp
nhất tất cả những gì tiến bộ và dân chủ. Ông nói: “Kinh nghiệm của thế kỷ XX
cũng cho thấy những ý định coi chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản như một
hình thái trong sự phát triển theo giai đoạn của xã hội là không đúng ngay từ đầu.
Điều đó hiện nay càng thấy rõ hơn khi những mối liên hệ và phụ thuộc qua lại của
sự phát triển ấy là điều kiện không thể thiếu của sự tiến bộ mà của cả sự sống
còn của cộng đồng thế giới. Sự đối chiếu những định hướng giá trị, sự thi đua của
các trào lưu chính trị khác nhau, đối thoại, kiểm soát lẫn nhau - tất cả những
điều đó là cần thiết cho xã hội bình thường”.
M.
Gorbachev cũng bác bỏ quan đểm của những người cho rằng những sự kiện đầy kịch
tính cuối những năm 80 đầu những năm 90 là “chiến thắng” của tự do kinh tế và
là “sự kết thúc của lịch sử”. Theo ông, trong cuộc đấu tranh giữa hai nguyên lý
- tính hiệu quả và công bằng xã hội - chủ nghĩa tự do đã buộc phải vay mượn cái
gì đó ở các học thuyết xã hội chủ nghĩa. Về phần mình, những người xã hội chủ
nghĩa phải áp dụng những phương pháp do các nhà lý luận và chính trị của chủ
nghĩa tự do tạo nên, nếu không thì khi cầm quyền họ sẽ mất năng lực hoạt động
và bỏ mất chính quyền.
Ông
khẳng định rằng những giá trị thường được đưa vào tư tưởng xã hội chủ nghĩa
không mất đi thực chất của chúng, chừng nào vẫn còn phản ảnh những hiện thực tồn
tại của con người trong thế giới này. Sự phá sản của chế độ toàn trị ở Liên Xô
là sự phá sản của một chế độ được gọi là chủ nghĩa xã hội nhưng thật ra không
phải thế.
Nhìn
tới triển vọng của thế giới, ông vẫn tỏ ra lạc quan về một nền văn minh toàn cầu,
trong đó con người là mục tiêu và ý nghĩa của tiến bộ, mà không phải là công cụ
của nó. nghĩa là một nền văn minh dựa vào chủ nghĩa văn minh toàn cầu. Trong nền
văn minh này, tư tưởng xã hội chủ nghĩa vẫn có và phải có vị trí của nó, miễn
là nó phải được suy nghĩ lại. Bởi vì như ông quan niệm, định hướng theo những
giá trị xã hội chủ nghĩa sẽ giúp hiểu đúng hơn những thực tế kinh tế và chính
trị xã hội.
8.
Cách nhìn của những người cộng sản
Sau
sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, cho đến nay (ít ra
là trong tay chúng tôi) chưa có một cuốn sách hay một bài nghiên cứu lớn nào của
người cộng sản trình bày có hệ thống cách nhìn của mình về thế giới hôm nay và
ngày mai. Đó đây, có những nhận định lẻ tẻ của người này người khác khi bàn tới
những vấn đề này khác. Và những nhận định ấy thật ra cũng không thống nhất, vì
khác với trước đây, khi những người cộng sản có tổ chức quốc tế của mình hay có
những diễn đàn chung của mình để đi tới những nhận định thống nhất như kiểu Hội
nghị các đảng Cộng sản và Công nhân ở Mascva năm 1957 và 1960), hiện nay không
có những tổ chức và những diễn đàn như vậy.
Tuy
nhiên, theo dõi những phát biểu gần đây ở nơi này hay nơi khác, có thể thấy một
số điểm giống nhau trong cách nhìn của những người cộng sản. Trước hết, mặc dù
không nhắc lại luận điểm cơ bản về thời đại hiện nay như thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, những người cộng
sản vẫn tin rằng chủ nghĩa xã hội vẫn là tương lai của loài người. Chủ nghĩa xã
hội chỉ lâm vào tình trạng khủng hoảng tạm thời mà thôi. Có tác giả (bài “Chủ
nghĩa xã hội - xu hướng phát triển của xã hội loài người”, Tạp chí Triết
học, Hà Nội số 2.1993) khẳng định: “Vì chủ nghĩa xã hội gắn liền với xu hướng
xã hội hóa (“... chỉ số phát triển của xã hội loài người được thể hiện ở trình
độ xã hội hóa cao của nó”), nên tương lai của xã hội loài người là chủ nghĩa cộng
sản” như học thuyết về xã hội của Mác đã tiên đoán. Tác giả chứng minh cho điều
đó bằng những quá trình xã hội hóa đang diễn ra “ngay trong lòng các nước công
nghiệp phát triển”: xã hội hóa các quan hệ quốc tế, xã hội hóa về sở hữu, xã hội
hóa về chính trị, v.v...
Sự
thất bại của chủ nghĩa xã hội được tác giả giải thích bằng việc “tuyệt đối hóa
nhảy vọt”, do đó đã “tuyệt đối hóa tính quyết định của cách mạng xã hội”, “đặt
xã hội vào chỗ nó chưa phải là nó, đề ra những bước đi quá sức nội tại của nó”,
và đó là “một trong những nguyên nhân căn bản làm nên thất bại tạm thời của hơn
bảy mươi năm xây dựng ‘chủ nghĩa xã hội hiện thực’ thời gian qua” (tạp chí
đã dẫn, tr. 26).
Còn
những nguyên nhân căn bản khác? Có người nói tới sự “phản bội” của những nhà
lãnh đạo nào đó. Có người nói tới những âm mưu và hoạt động phá hoại của chủ
nghĩa đế quốc. Cũng có người nói tới cả tình trạng thoái hóa về đạo đức của những
đảng viên cộng sản khi cầm quyền...
Nếu
về sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội còn có những lời bàn luận theo kiểu trên, hoặc
gần giống như thế, thì về tương lai gần của thế giới hầu như không thấy một sự
phân tích cụ thể nào. Có lẽ trong các nhà lý luận cộng sản, Lucien Sève là
người để nhiều công sức hơn cả vào việc xem xét lại lý luận về chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1990, ông công bố cuốn Chủ nghĩa cộng sản - hơi thở thứ hai nào? (Communisme
- quel second soufle?, Editions sociales, 1990, Paris), với tham vọng đem lại sức
sống mới cho chủ nghĩa cộng sản trong một thế giới như chính ông nói, đang diễn
ra “một sự đụng đầu quyết liệt trên toàn hành tinh của tương lai và hiện tại
chính trị” (tr. 21). Một mặt, “trong thế giới xã hội chủ nghĩa, một cái gì rất
căn bản đã bùng nổ”, còn trong thế giới tư bản chủ nghĩa, vào giai đoạn bấp
bênh này của lịch sử, cách suy nghĩ và hành động cộng sản rõ ràng không mấy nặng
cân trong các lực lượng chính trị và văn hóa, và “tương lai đang bị mắc bẫy”
(tr. 21). Không đi sâu vào những phân tích thuần túy lý thuyết của ông (ông muốn
“phát hiện lại chủ nghĩa cộng sản”), ở đây chỉ nói tới những ý kiến của ông về
thế giới hiện nay và trong tương lai gần gũi. Giống như một số nhà lý luận cộng
sản khác, ông cho rằng sự thất bại của chủ nghĩa xã hội chính là ở chỗ: trên đường
đi của nó đã “đánh mất ý nghĩa của nó” (tr. 79). Vì thế trong bản thân nó nảy
sinh những đối kháng mà cần phải có “một cuộc cách mạng trong cách mạng” (tr.
81). Xuất phát từ đó, ông tán thành cải tổ ở Liên Xô với tinh thần: không thể cải
tổ chủ nghĩa xã hội nếu không khôi phục lại “chân trời của nó” (tr. 83). Nói
cách khác, phải trở về nguồn để làm cho chủ nghĩa xã hội mang bộ mặt dân chủ và
nhân đạo. Bằng cách đó, chủ nghĩa cộng sản sẽ tìm thấy “hơi thở thứ hai” trong
các nước xã hội chủ nghĩa. Ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, trong con mắt
ông, những dự kiến của Mác từ giữa thế kỷ XIX đang trở thành hiện thực hơn bao
giờ hết. Đó là những xu hướng “cách tân nhất của thời đại chúng ta”: lực lượng
sản xuất triển khai rộng khắp, những điều tiết bằng tiền - tư bản đã bị vượt qua,
những người sản xuất liên kết với nhau bằng những sức mạnh xã hội khách quan của
mình và họ đã có sự chiếm hữu thật sự, những đối kháng giai cấp bị loại bỏ, sự
phát triển toàn bộ của các cá nhân, sự tiêu vong của nhà nước, sự đối địch giữa
các quốc gia bị loại bỏ, việc chuyển từ ngẫu nhiên sang tự do hiện thực, v.v...
Ông nói: “... nếu như từ giữa thế kỷ trước, Mác đã có thể nhìn thấy trong những
đảo lộn lịch sử ấy cái hướng tất yếu của thời kỳ sau chủ nghĩa tư bản, thì những
đảo lộn chẳng phải đang làm nổi rõ hơn triển vọng hiện nay của chúng ta, khi biết
bao nhiêu giả định về một nền văn minh mới đang xuất hiện với một nhịp độ gia tốc
đó sao? Tương lai của chúng ta chẳng phải được gọi bằng chủ nghĩa cộng sản hơn
bao giờ hết đó sao?” (tr. 86). Nói cách khác, L. Sève coi nền văn minh mới đang
xuất hiện sẽ dẫn tới và chắc chắn dẫn tới chủ nghĩa cộng sản. Tương lai đó,
theo ông, không phải là chủ nghĩa tư bản tự do, cũng không phải là chủ nghĩa xã
hội quan liêu, mà là một thứ “chủ nghĩa xã hội ngang tầm” (socialisme à la
hauteur) với những điều kiện lịch sử mới. Bằng cách lập luận khá độc đáo, ông
cho rằng những nét chủ yếu của tương lai duy nhất có thể có “không phải xuất
phát từ những đối kháng của một phương thức sản xuất trong đó vấn đề quan hệ xã
hội đóng vai trò quyết định nữa, mà là từ những giới hạn tăng trưởng của một kiểu
lực lượng sản xuất nào đó trước hết được nhìn theo các quan hệ với tự nhiên”
(tr. 94). Và “Phạm trù trung tâm không còn là tha hóa nữa, mà là ô nhiễm” (tr.
94).
Theo
hướng đó, L. Sève suy nghĩ lại hàng loạt vấn đề, từ những vấn đề có liên quan với
“cách mạng” trong thời đại hiện nay, đến những vấn đề về “Đảng cộng sản” trong
hoàn cảnh thế giới mới. Với “hơi thở thứ hai” của chủ nghĩa cộng sản, hay nói
cách khác, với chủ nghĩa cộng sản được suy nghĩ lại theo lối của ông, ông khẳng
định chủ nghĩa cộng sản hơn bao giờ hết. Đây là những kết luận của ông (được
nêu rõ cuối mỗi phần cuốn sách):
1. Một
đảng cộng sản không có lý do gì để sợ công khai tự tuyên bố mình theo chủ nghĩa
cộng sản (xem tr. 104).
2. Những
người cộng sản không có gì phải sợ khi đẩy tới cùng cuộc cách mạng của cách mạng
(xem tr. 181)
3. Một
đảng cộng sản không có gì phải sợ những quyền lực toàn vẹn của dân chúng cộng sản
(peuple communiste) đối với chính mình: phải đẩy dân chủ tới cùng theo con đường
chủ nghĩa cộng sản (xem tr. 257).
Và
như vậy, lúc này người cộng sản vẫn cứ là người cộng sản, hơn nữa, phải là người
cộng sản hơn (tr. 264).
Điều
đáng tiếc là những suy nghĩ mới của L. Sève về chủ nghĩa cộng sản đã không được
chính những người cộng sản trao đổi và thảo luận sôi nổi như về những vấn đề nảy
sinh trước đây trong phong trào cộng sản quốc tế. Vì thế, xin nhắc lại rằng ở
đây chỉ giới thiệu những ý kiến khác nhau mà chưa phải những quan điểm thống nhất
của những người cộng sản trên thế giới trong hoàn cảnh hiện nay. Lịch sử chưa
cho phép đi tới những quan điểm thống nhất như vậy chăng?
9.
Cách nhìn của Edgar Morin
Trong
những năm gần đây, E. Morin nổi lên như một nhà tư tưởng có ảnh hưởng ở Pháp và
phương Tây. Những tìm tòi của ông về phương pháp ở một mức độ nào đó được nhiều
người ví với Bàn về phương pháp của Descartes, cha đẻ của chủ
nghĩa duy lý thế kỷ XVII. Nhưng ở đây chúng tôi chỉ chú trọng tới những quan điểm
của ông về thế giới hôm nay, thể hiện khá đầy đủ trong cuốn Để từ giã
thế kỷ XX và một số bài viết gần đây của ông.
Có
thể nói ông là người theo thuyết bất định (theorie d’incertitude), không thừa
nhận sự tiến hóa của loài người theo một phương hướng hay mỗi định luật nào cả.
Thế giới và loài người luôn luôn sống trong tính phức hợp (la complexite),
trong cái bấp bênh (l’incertain), cái bất định (l’indetermine). Như lời ông
nói: “Thế giới của chúng ta là một thế giới của một cái không thể đoán trước và
của sự hỗn độn, tức là cái bấp bênh. Không những bấp bênh về kinh nghiệm, mà bấp
bênh cả về nhận thức, vì những phạm trù tinh thần của chúng ta không thể nắm bắt
được những hiện thực không thể nào hiểu được như nguồn gốc của thế giới” (Edgar
Morin, Philosophe de l’incertain, Magasine litteraire, No. 312, Juillet-Aout
1993, Paris, p.18). Theo ông, ý thức con người đang ở trong “đêm tối và sương
mù”, tương lai thế giới không thể tiên đoán được. Nhưng không phải vì thế mà
ông rơi vào một thứ chủ nghĩa hoài nghi hay chủ nghĩa hư vô, mà vấn đề là phải
đi tới một chiến lược nhận thức (stratégie de connaissance) phù hợp với cái bấp
bênh và bất định ấy (xem Pour sortir du XX e siècle, tr. 24).
E.
Morin nhìn thế giới của thế kỷ XX như một thế giới khủng hoảng với ý nghĩa là
“tính bấp bênh xuất hiện ở nơi mà mọi cái có vẻ chắc chắn, được điều khiển, do
đó có thể đoán trước”. Nhìn bằng con mắt của “tính liên tục”, thế giới có vẻ
như tiến dần lên, theo tuyến tính, qua những sự phát triển của khoa học, kỹ thuật,
kinh tế, công nghiệp, tiêu dùng, văn minh (đó là cách nhìn chi phối các quan niệm
xã hội học hiện nay). Nhưng nếu nhìn bằng con mắt của “tính đứt đoạn”, thì đó
là “một thế kỷ bùng cháy như núi lửa qua hai cuộc chiến tranh lớn nhất, qua những
cuộc khủng hoảng ghê gớm của các xã hội”, “những quá trình giải phóng sẩy hụt
và trệch đường” (như trên, tr. 327-328). Với cách nhìn ấy, các xã hội
phương Tây đầy ắp những khủng hoảng: khủng hoảng văn minh, khủng hoảng văn hóa,
khủng hoảng giá trị, khủng hoảng gia đình, khủng hoảng nhà nước, khủng hoảng đô
thị, khủng hoảng nông thôn...và “các xã hội này vừa bị các cuộc khủng hoảng ấy
đe dọa, vừa sống bằng những cuộc khủng hoảng ấy” (như trên, tr. 331).
Còn các xã hội kiểu Stalin thì dường như không có khủng hoảng vì tính bất động,
xơ cứng và đông lạnh chính trị, vì kỷ luật nghiệt ngã của bộ máy... Nhưng dưới
bề ngoài ấy, ông dự báo từ đầu những năm 81 rằng “... toàn bộ xã hội xô-viết chắc
chắn sẽ bị khủng hoảng và sẽ tan vỡ” (như trên, tr. 331). Trong một thế
giới bị chi phối bởi hai siêu cường - Mỹ và Liên Xô - ông nhìn thấy cả hai siêu
cường đó bị xâu xé giữa những đối lập và mâu thuẫn có tính chất khủng hoảng. ở
Mỹ, những đối lập và mâu thuẫn ấy dẫn tới những hỗn loạn lớn khiến đôi khi nhà
nước bị rung chuyển, lung lay, thậm chí tê liệt. Nhưng chính là qua những hỗn
loạn ấy mà sức sống của xã hội Mỹ biểu hiện ra. Ngược lại, ở Liên Xô, những hỗn
loạn ấy bị đẩy xuống dưới mặt đất, những nhân tố khủng hoảng bị dìm xuống trước
khi nổi lên mặt, nhưng vì thế mà tiềm năng khủng hoảng to lớn hơn. Mỹ và Liên
Xô đều là những “sức mạnh-suy yếu”, mỗi bên vừa là một siêu cường quốc, vừa là
một siêu bất lực.
Cả
phương Tây lẫn phương Đông đều chịu ảnh hưởng của những chất men khủng hoảng.
Thế giới thứ ba thì trải qua sự phát triển của tình trạng kém phát triển, nằm
giữa sống và chết. Như vậy, “khắp nơi, trong thế giới phát triển quá mức cũng
như trong thế giới đang phát triển, có một sự phát triển của những sự kém phát
triển, không tách rời với chính bản thân sự phát triển” (như trên, tr. 335).
Tất
cả những ý tưởng ấy đã được E. Morin đẩy tới xa hơn khi bước vào những năm 90.
Trong một bài đăng trên Le Monde (tháng 11 - 1992), dưới nhan
đề Trái đất - thiên thể lang thang, ông nói tới sự hấp hối của tính
hiện đại vào cuối thế kỷ này. Ra đời từ cuối thế kỷ XV, tính hiện đại đồng
nghĩa với những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, của lý trí, của quy luật vĩ đại
về sự tiến bộ không thể đảo ngược được. Nó đã trở thành một niềm tin, hơn nữa một
tôn giáo. Người ta tin chắc rằng sẽ đi tới một sự hoàn tất chiến thắng của Lịch
sử, với Dân chủ, hay với chủ nghĩa xã hội, hay với xã hội công nghiệp tùy mỗi
người mong muốn. Những sự khủng hoảng của tiến bộ đã bắt đầu trong những năm 20
- 40. Tính hai mặt của tiến bộ khoa học bộc lộ năm 1945, với Hiroshima. Những
năm 70, sự báo động về sinh thái hành tinh làm nổi lên tính hai mặt của sự phát
triển công nghiệp. Rồi với sự sụp đổ của chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mác, ý
nghĩa cứu thoát của cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng mất đi, không thể bù đắp được.
Và bây giờ, vào cuối thế kỷ này, người ta thấy khoa học không phải chỉ làm sáng
tỏ, mà còn làm mù quáng cả cuộc phiêu lưu của chính nó, vượt ra khỏi sự kiểm
soát và lương tâm của chính nó. Những điều người ta từng coi là những bước tiến
của ý thức con người hóa ra đã bị chi phối bởi sức mạnh vô thức khủng khiếp.
Ông nói: “Chúng ta không còn ở trong giai đoạn cuối cùng đi tới “tương lai rạng
rỡ” nữa. Chúng ta đang ở trong “Đêm tối và sương mù”. Chúng ta không phải ở
trong thời điểm hoàn tất lịch sử loài người mà vẫn còn ở trong thời tiền sử của
tinh thần con người... Tiến bộ không được tự động bảo đảm bởi một quy luật nào
của lịch sử. Biến thiên không nhất thiết là phát triển. Từ nay, tương lai có
tên gọi là bất định”.
Theo
ông, khủng hoảng về phát triển diễn ra trên quy mô toàn hành tinh. Nó không chỉ
hoành hành ở Thế giới thứ ba (thường được gọi là kém phát triển), mà cả ở thế
giới phương Tây (thường được coi là thế giới phát triển), vì trong con mắt ông,
đó cũng là một thế giới kém phát triển về đạo đức, trí tuệ và tình cảm trong
(và do) sự phát triển công nghệ của chính nó.
Cuộc
khủng hoảng của tính hiện đại, của lý trí, của chủ nghĩa duy lý có nghĩa là mất
niềm tin vững chắc vào Tiến bộ, vào Tương lai. Có hai cách đáp ứng cuộc khủng
hoảng này: chủ nghĩa toàn thống mới (le néo - foundamentalisme) và chủ nghĩa hậu
hiện đại (le postmodernisme). Cái thứ nhất muốn bám rễ lại vào truyền thống đã
bị chủ nghĩa hiện đại vất bỏ. Nó hiện ra dưới những hình thức tôn giáo hay tộc
người, và trở thành quyết liệt khi gồm cả những hình thức đó. Chủ nghĩa toàn thống
mới chủ trương đoạn tuyệt với cuộc phiêu lưu của sự phát triển, trở về với quá
khứ. Nhưng thật ra, nó vẫn sử dụng nhà nước dân tộc, kỹ thuật, công nghiệp, vũ
khí, và điều đó khiến cho nó trở thành kẻ đi tới một sự phát triển chưa hề biết.
Chủ
nghĩa hậu hiện đại thì cho rằng cái mới không nhất thiết cao hơn cái cũ, và sự
tiến bộ không được bảo đảm về mặt lịch sử. Nó trở thành mù quáng khi tin rằng mọi
cái đều đã được nói lên, mọi cái đều chỉ là lặp lại, chẳng có lịch sử mà cũng
chẳng có phát triển. Nó đứng ra ngoài những biến cố đang diễn ra vì mọi cái đều
không có gì chắc chắn cả.
Khác với những người theo chủ nghĩa hậu hiện đại, E. Morin không đứng ra ngoài các biến cố, ông không quan niệm rằng mọi cái đều lặp lại, mọi cái đều đã được nói lên, ông quan niệm lịch sử là bất định, không ngưng trệ, nhưng cũng không đường bệ tiến tới tương lai rạng rỡ. Lịch sử được phóng vào một cuộc phiêu lưu không thể biết rõ.
Khác với những người theo chủ nghĩa hậu hiện đại, E. Morin không đứng ra ngoài các biến cố, ông không quan niệm rằng mọi cái đều lặp lại, mọi cái đều đã được nói lên, ông quan niệm lịch sử là bất định, không ngưng trệ, nhưng cũng không đường bệ tiến tới tương lai rạng rỡ. Lịch sử được phóng vào một cuộc phiêu lưu không thể biết rõ.
Thế
giới của thế kỷ XX mù quáng lạc vào những ảo tưởng tệ hại nhất. Bằng những kinh
nghiệm này, E. Morin cho rằng những ảo tưởng ấy đã tiêu tan hoàn toàn vào cuối
năm 1989.
Ông
nhìn thấy niềm hy vọng dâng lên khắp nới ở những dân tộc khát khao dân chủ.
Nhưng, theo ông, niềm hy vọng về dân chủ thật mong manh. Không có cái gì giành
được xong xuôi cả. Không ai biết được những gì sẽ xảy tới với châu Âu đang tan
rã và đang tập hợp lại. Nhất là không ai biết những gì xảy tới từ “đế chế cũ”
(tức là Liên Xô) đang vận động hỗn loạn vừa trở về quá khức vừa đi tới tương
lai. Những gì sẽ xảy tới với Trung Quốc, với Đông Nam Á, với vùng đảo Caraip, với
các nước châu Mỹ, với châu Phi, với cả hành tinh này - chưa ai biết cả. “Ngọn
gió Lịch sử vừa dâng lên đang cuốn chúng ta vào một cuộc phiêu lưu bí ẩn mới,
ngoài những sơ đồ quen thuộc. Trái đất chúng ta, theo định nghĩa cũ về từ hành
tinh, đúng là một thiên thể lang thang”.
E.
Morin cho rằng chúng ta không những ở trong cái chưa biết, mà còn trong cái
chưa có tên gọi. Hiểu biết của chúng ta về thời đại chỉ thể hiện ở tiếp đầu ngữ
“hậu” (post): hậu công nghiệp, hậu hiện đại, hậu chức năng chủ nghĩa... hoặc ở
tiếp đầu ngữ tiêu cực “chống” (chống toàn trị). Chúng ta đang ở trong một sự mơ
hồ sâu sắc của một kỷ nguyên hấp hối, trong đó mọi triệu chứng của cái chết
cũng có thể là triệu chứng của sự sinh đẻ.
Tính
phức hợp của những vấn đề thế giới đang làm chúng ta bó tay. Vì thế cần phải
trang bị lại về trí tuệ và suy nghĩ về tính phức hợp.
E.
Morin vẫn tin vào những giá trị lớn của thế giới loài người: dân chủ, tiến bộ.
Nhưng đối với ông, dân chủ tuy là một giải pháp thật, song là một giải pháp kiểu
đặc biệt: nó sống bằng các vấn đề và tạo ra các vấn đề. Tiến bộ cũng vậy, nó có
thể có, nhưng không được bảo đảm và không một tiến bộ nào là hoàn tất cả, nó
không ngừng tự thoái hóa. Đây là kết luận của ông: “Từ nay Tiến bộ lại càng quý
giá hơn vì nó không tuân theo một tất yếu khách quan nào, nó không có một bảo đảm
lịch sử nào. Đừng tin rằng tương lai đã được chương trình hóa, cũng đừng cố
chương trình hóa nó, mà tự hướng mình vào vài ý tưởng chủ đạo, đặc biệt là bộ
ba lý tưởng của Cách mạng Pháp: “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”. Chúng ta có thể
nghĩ tới ý đồ lớn duy nhất: làm cho Trái đất thành văn minh.
*
Trở lên trên, chúng tôi đã giới thiệu sơ lược một số cách nhìn khác nhau của những tác giả tiêu biểu cho những xu hướng khác nhau. Tất nhiên, còn có thể tiếp tục danh mục này. Ở đây, chưa nói tới Alain Touraine với Phê phán tính hiện đại, Jacques Attali với Những đường chân trời, Michel Poniatowski với Lịch sử là tự do, và những tác giả nổi tiếng khác. Càng chưa đụng tới những phân tích và tất cả dự báo có giá trị về từng lĩnh vực của đời sống loài người hiện nay và sắp tới, như Kinh tế thế giới (1990-2000) - mệnh lệnh tăng trưởng của Trung tâm Nghiên cứu những Triển vọng và Thông tin Quốc tế, Tình trạng hành tinh của hai nhà nghiên cứu Mỹ R. Brown và E. Young, v.v... Lại càng chưa đụng tới vô số những sách báo viết về từng vùng, từng khối, từng nước, nhất là những nước đang đóng vai trò quan trọng trên vũ đài chính trị, kinh tế và cả văn hóa trên thế giới. Và những gì có trong tay chúng tôi là rất ít ỏi so với những gì hiện có trong các thư viện, các ngân hàng dữ kiện...
Chỉ
mới đụng tới một mảng trong dãy núi khổng lồ kia cũng có thể đem lại một suy
nghĩ cần thiết: cái thế giới mà chúng ta đang sống quả là một thế giới vô cùng
phong phú, vô cùng phức tạp, nó vận động theo những cái chúng ta đã biết và
theo vô số những cái mà chúng ta chưa biết. Không thể nhìn thế giới bằng một
cách tiếp cận giản đơn, dựa vào những chân lý có sẵn. Sự tìm hiểu thế giới hôm
nay và ngày mai chỉ mới bắt đầu...
Những cách nhìn được giới thiệu trên đây thật khác nhau và trái ngược nhau. Cái nào đúng và cái nào sai, thật khó kết luận. Theo chúng tôi, mỗi cách nhìn đều phản ánh một hiện thực nào đó của thế giới mà chúng ta không thể bỏ qua.
Những cách nhìn được giới thiệu trên đây thật khác nhau và trái ngược nhau. Cái nào đúng và cái nào sai, thật khó kết luận. Theo chúng tôi, mỗi cách nhìn đều phản ánh một hiện thực nào đó của thế giới mà chúng ta không thể bỏ qua.
Mỗi
sự phân loại sơ lược có thể cho chúng ta thấy có những “trục” sau đây:
- Cách
nhìn tuyến tính - cách nhìn phi tuyến tính (thậm chí là cách nhìn theo
vòng tròn, chu kỳ);
- Cách
nhìn theo những quy luật lịch sử khách quan và tất yếu - cách nhìn bất định;
- Cách
nhìn dựa vào sự phát triển của nền văn minh, văn hóa - cách nhìn theo các
hình thái xã hội-kinh tế;
- Cách
nhìn bi quan - cách nhìn lạc quan...
Chưa
bao giờ lại có nhiều, rất nhiều cách nhìn thế giới khác nhau như bây giờ. Một dấu
hiệu của trí tuệ thời đại, khi loài người đang chuyển từ kỷ nguyên này sang kỷ
nguyên khác chăng?
Dù
sao, cũng cần đi tới một cách nhìn nào đó về thế giới hôm nay và ngày mai gần
gũi, một cách nhìn có thể chấp nhận được ở những người muốn sống và hành động
trong thế giới đó mà không muốn trở thành lạc lõng. Đó là công việc mà chúng
tôi sẽ cố thử làm trong phần sau.
Nguồn:http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7583&rb=0306