Đại nghị chế bền vững, từ kinh nghiệm Weimar đến hiến pháp cộng hoà liên bang Đức 1949

Posted on
  • Thứ Tư, 8 tháng 7, 2015
  • by
  • Minh Anh
  • in
  • Nhãn:
  • I -  ĐẠI NGHỊ CHẾ
    Nói đến  Đai-Nghị-Chế (Parlamentarisme), ý kiến thông thường chúng ta hay cho là một thể chế gần như luôn luôn  đặt quốc gia trong tình trạng bấp bênh về định chế:
    -  Tổng-thống giải tán Quốc-Hội; 
    - Quốc-Hội bất tín nhiệm Chính-Phủ làm Chính-Phủ bị tê liệt phải từ chức; 
    - Chính-Phủ cũng có  thể  diện cớ rằng đạo luật đang yêu cầu chấp thuận có tính cách khẩn cấp, nếu không được chấp thuận, có thể yêu cầu Tổng-Thống giải tán Quốc-Hội;
     - Tổng-Thống  có thể giải tán Quốc-Hội, thu hồi chức vụ của Thủ Tướng để tổ chức bầu cữ Quốc-Hội  mới, thành lập Chính-Phủ mới có lợi cho chính đảng của ông và Chính-Phủ mới thân thiện hơn với cá nhân ông; 
    - các lực lượng trong Quốc-Hội cũng có thể toa rập nhau tố cáo Tổng-Thống cố ý vi hiến và phạm pháp trước Tòa-Án Quốc-Gia Thường-Vụ cho Đế Quốc Đức (Staatsgerichtshof fĂr das Deusche Reich, theo Hiến-pháp Weimar 1919 Đức Quốc), hoặc trước Viện Bảo-hiến Liên-Bang (BundesVerfassungsGericht, Bverf GE, theo Hiến Pháp 1949 CHLBĐ, điều 61, (I, II)... 
    Nói tóm lại, nhìn vào những gì chúng tôi vừa kể, Đai-Nghị-Chế là một thể chế Quốc Gia loạn xạ, trong đó quyền lực nầy  tự do đả phá, đập đổ, chống báng quyền lực kia, làm cho Quốc Gia tê liệt. 
    Ít ra cảm tưởng đầu tiên của phần lớn chúng ta là vậy.
    Có thật Đai-Nghị-Chế là một thể chế quốc gia loạn xa, thời Thập-Nhị Sứ-Quân hay Tam-Quốc-Chí của các thế kỷ hiện đại không? 
    Đặt câu hỏi dưới hình thức khác: Có phải Tổng-Thống-Chế, thể  chế quốc gia hiện tại của Hoa Kỳ là cách tổ chức quốc gia hữu hiệu, vững bền và hoàn hảo mà các quốc gia trong tương lai cần phải nhằm đến như là mẫu mực để tổ chức không? 
    Bài viết nầy người viết không có tham vọng trả lời một cách dứt khoát đúng hay sai, mà là thu góp và trình bày đến qúy độc giả, nhứt là qúy vị đàn anh, một ít tài liệu và ý kiến để cùng suy nghĩ cho tương lai đất nước.  
    II- TỔNG THỐNG CHẾ.
    1- Tổng-thống-chế trên thế giới.
    Văn bản Hiến-Pháp đầu tiên tiêu biểu cho Tổng-Thống-chế là Hiến-Pháp Philadelphia 1787  của Hoa Kỳ. 
    Từ đó đến nay Tổng-Thống-chế được áp dụng ở một số quốc gia trên thế giới:
    a- một số quốc gia Châu Mỹ La tinh, sau khi đã dành lại được độc lập khỏi chế độ thuộc địa   của Tây Ban Nha, (trường họp duy nhứt, Ba Tây, khỏi Bồ Đào Nha).
    b- một số quốc gia Phi Châu, sau Đệ Nhị Thế chiến,
    c- một ít quốc gia Á Châu.
    Thoáng nhìn , chúng ta có thể đi đến kết luận sơ khởi là tất cả các quốc gia vừa được đề cập đến là những quốc gia "kém mở mang " (LDC, Less Developed Countries), mà đôi khi trong những bài có chủ đề về kinh tế, chúng tôi thích dùng thành ngữ "chậm phát triển " (LDC, Last Developed Countries) hay "đang trên đà phát triển " hơn là từ ngữ tiên khởi vừa kể.
    Nêu lên nhận xét đầu tiên vừa kể, chúng tôi không có ý đánh  thấp giá trị  Tổng-Thống-Chế của Hoa Kỳ, như là cơ chế chỉ áp được cho các Quốc Gia "chậm tiến, kém mở mang, chậm phát triển, đang trên đà phát triển ", mà là lưu ý quý độc giả đến việc không thành công trong công cuộc áp dụng Tổng-Thống-Chế tại các quốc gia trên, do ảnh hưởng của các " yếu tố hoàn cảnh địa phương " can dự vào:
    - thiếu tinh thần đoàn kết quốc gia, hậu quả của chính sách chia để trị của chính sách thuộc địa,
    - "chậm tiến hay chậm phát triển "còn có nghĩa là thiếu vốn đầu tư và phương tiện kỷ thuật, không xử dụng hiệu năng và toàn diện nhân lực, "số vốn nhân thức" (human capital), thiếu  nguyên liệu, trình độ học vấn thấp, nạn mù chữ lan tràn...,
    Những "yếu tố môi trường địa phương "vừa kể làm cho việc áp dụng Tổng-Thống-Chế:
    -  không những không có kết quả mong muốn, 
    - mà còn đưa đến nhiều việc vi phạm Hiến-pháp cũng như Luật-pháp nặng nề, 
    - vi phạm nhân phẩm và nhân quyền trầm trọng, 
    - truất phế đảo chánh và nội chiến đẩm máu xảy ra mỗi ngày, đưa nhiều quốc gia đến chế độ độc tài và quân đội trở thành độc tôn, thao túng lấn áp chính trị ( P. Biscaretti di Ruffià, Introduzione al Diritto Costituzionale Comparato,Milano, Giuffrè, 1988, 99-106;165-171).
    a)  Đối với các quốc gia Châu Mỹ La Tinh, trừ truờng hợp Uraguay, một đôi khi được lãnh đạo bởi một Hội-đồng Chỉ-đạo (Directoire) như thể chế của Thụy Sĩ, tất cả các quốc gia khác đều có:
    -    một vị Tổng-Thống dân cử do phổ thông đầu phiếu, 
    -    Quốc-Hội Lưỡng-viện, 
    -    Tư-Pháp độc lập. 
    Và như trên chúng ta vừa đề cập, chính các "yếu tố môi trường địa phương" đã luôn luôn tạo ra tình trạng bất ổn: 
    - đảo chánh, chỉnh lý, cách mạng là chuyện xảy ra như cơm bữa hay như "lá rụng mùa thu", 
    - các văn bản Hiến-Pháp được vất vào sọt rát, hay cắt xén sửa đổi cho "hợp tình hợp lý "đối với giới lãnh đạo đương quyền hay giới quân đội vừa đảo chánh thành công cướp chính quyền: 
    *biến quốc gia dân chủ  được « quản lý »  bằng Nhà-Nước Độc-Tài (Á-căn-đình) của Tổng-thống Peron; 
    *Chí Lợi sau một thời gian ồn định, Tổng-Thống Allende năm 1973 bị  Pinochet  đảo chánh cướp chính quyền rồi trở thành độc tài, độc tôn , thủ tiêu hàng chục ngàn các thành phần bất đồng chính kiến cho đến những năm gần đây.
    *Nicaragua, cho mãi đến năm 1987 mới ban hành được Hiến-Pháp, sau khi  nhóm khuynh tả "Sandinista" tẩy chay gia đình Somoza từ năm 1979, đã cai trị quốc gia từ hơn vài chục năm như Từ Hải trong Truyện Kiều 
    "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai " (Legibus solutus).
    Nhưng cũng từ thời điểm đó, Nicaragua vẫn còn đang nội chiến đến nay giữa nhóm Sandinista và nhóm võ trang Contras.  
    Tổng-Thống-Chế của các quốc gia Mỹ-Châu La-Tinh có hai đặc tính chung: 
    - Vị Tổng-thống ở địa vị và quyền hạn trổi vượt; 
    - quân đội đóng vai trò chính trị trọng yếu trong cộng đồng quốc gia. 
    Địa vị và vai trò trổi vượt của Tổng-thống được thể hiện theo thực tế hơn là do Hiến-định hay Luật-định. 
    Nhiệm vụ soạn thảo ra dự án luật, nghị định cũng như quyền  phủ quyết được hành xử trên thực tế thực tế giao cho Tổng-Thống , Bộ-Trưởng  hơn là đặc quyền pháp định của Quốc-Hội. 
    Thẩm quyền của Tổng-Thống nói riêng và Chính-Phủ nói chung được tăng cường do các yếu tố môi sinh địa phương thực tiển, hơn là do Hiến-Pháp và Luật-Pháp quy định theo nguyên tắc. 
    Trình độ tổ chức xã hội và mức sống thấp kém, nạn mù chữ lan tràn, phương thức tổ chức sơ đẳng và yếu kém của các chính đảng, thái độ bảo thủ kéo dài trên mấy mươi năm của hàng giáo phẩm..., tất cả những yếu tố đó là « những yếu tố môi sinh địa phương »  thuận lợi, giúp tăng cường gán cho cá nhân  của Tổng-thống những đặc tính trổi vượt, gán cho quyền hạn của Tổng-Thống ưu tiên và vượt lên trên  các cơ chế chính trị khác. 
    Thêm vào đó, quân đội cũng góp phần vào việc "thượng đẳng hóa " (sublimer) vai trò và quyền hạn của Tổng-Thống  ( F. Conac, Pour une théorie du prédentialisme: quelques réflexions  sur les présidentialismes latino-améicaines, dans  Le Pouvoir (Mélanges Burdeau) , Paris 1977).
    Với vai trò được "thượng đẳng hoá " ( sublimatisé) như vậy, việc Tổng-Thống cũng như Chính-Phủ ông không có khuynh hướng trở nên độc tài, độc tôn  và tự tôn là chuyện lạ. 
    Đối lập dường như không còn nữa, hay có cũng chẳng có khả năng đối kháng được gì.
    Quyền hành chiếm hữu được và được quân đội bảo trợ để tồn tại vĩnh viễn.
    Bầu cử  có được tổ chức cũng chỉ là những hình thức rỗng tuếch, tự do chính trị  chỉ còn là những cách nói vô nghĩa.
    Các diển biến trong những năm gần đây ở các quần đảo Caraibie, ai trong chúng ta cũng nghe nói đến từ, Trujillo đến Cộng Hoà  San Domingo, quyền bính cha truyền con nối của họ tộc Duvalier ở Haiti...
    b)Tổng-Thống-Chế  ở Phi-châu,
    Một vài quốc gia Phi-châu với Tổng-thống-chế tổ chức được cuộc sống dân chủ khả quan, như Algérie, Tunisie ( Debbasch, La République tunisienne, Paris 1962; Lavroff, La République du Sénégal, Paris, 1966, dans Comment ils sont gouvernés?, dir. Par Burdeau ).
    Nhưng những cuộc đảo chánh, truất phế, nội chiến, tranh giành có tính cách bộ lạc ở Congo, Ruanda, Tanzania, Mozambico, Sierra Leone, Etiopia, Somalia, Yehmen..., các quốc gia theo  Tổng-thống-chế, là những tin tức gần như thường ngày, ai trong chúng ta cũng nghe nói đến. 
    Những « yếu tố môi sinh địa phương » được kể trên, cùng với ảnh hưởng văn hoá của các mẫu quốc thuộc địa có thể cắt nghĩa cho chúng ta tình trạng bất ổn ở các quốc gia Phi-châu Tổng-thống-chế. 
    Các Quốc Gia Phi-Châu nói tiếng Pháp, không những áp dụng Tổng-Thống-Chế theo tinh thần Hiến-Pháp Philadelphia của Hoa Kỳ, mà còn chịu ảnh hưởng sâu đậm tinh thần Hiến-Pháp 1958 của De Gaulle, tập trung vai trò và quyền lực của Vị Nguyên-Thủ Quốc-Gia và Vị  Lãnh-Đạo Chính-Quyền vào một cá nhân duy nhất, tức Tổng-Thống (chúng ta đã có dịp bàn đến trong bài PHÁP QUỐC VÀ BÁN TỔNG THỐNG CHẾ). 
    Vị Tổng-Thống được trực tiếp tuyển chọn do phổ thông đầu phiếu và có thể được tái chọn vô hạn định, như những gì Tổng Thống De Gaulle muốn ở Pháp.
    Với vị Tổng-Thống "toàn năng " như vừa kể, dĩ nhiên là quyền lập pháp của Quốc-Hội sẽ bị hạn chế lại và quyền tự tung tự tác của Hành-Pháp tùy hỷ là điều có thể tưởng tượng được, 
    -    nhứt là vị Tổng-Thống vừa là Nguyên-Thủ Quốc-gia,
    -    vừa Lãnh-Đạo Hành-pháp, 
    -    vừa là Tổng Tư-lệnh Tối-cao Quân-đội. 
    -    Còn trong trường hợp khẩn cấp, Vị Tổng-Thống "toàn năng" được giao phó cho mọi quyền hành để tùy cơ ứng biến:
    « Trong trường hợp các cơ chế cộng hoà, nền độc lập của quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc việc thực hành các nghĩa vụ quốc tế bị đe dọa nghiêm trọng và trực tiếp cũng như  hoạt động các cơ quan hiến định bị gián đoạn, Tổng-Thống Cộng-hoà sẽ áp dụng các phương thức cần thiết  do các hoàn cảnh trên đòi hỏi, sau khi tham khảo ý kiến của Thủ Tướng, của các vị Chủ-Tịch Hạ-Viện và Thượng-Viện » (Debbasch, La République tunisienne, Paris 1962; Lavroff, La République du Sénégal, Paris, 1966, dans  Comment ils sont gopuvernés?, dir. Par Burdeau ).
    Vẫn theo Hiến-pháp 1958 hiện nay của Pháp Quốc, Tổng-Thống 
    -    có quyền triệu tập  trưng cầu dân ý ( Điều 16, Hiến Pháp 1958 Pháp Quốc),
    -    và giải tán Hạ Viện ( Điều 11). 
    Tổng-Thống được đặt ở một địa vị quyền năng hơn Hạ-viện, một viện Quốc-Hội  dù do  dân cử  phổ thông đầu phiếu cũng  bị tê liệt.
    Một số quốc gia Tổng-Thống-Chế Phi-Châu "sao y bản chính" các điều khoản Hiến-Pháp 1958 của Pháp Quốc dành riêng cho vị Tổng-Thống Pháp ( Điều 21): 
    Dĩ nhiên những quyền lực "toàn quyền vô hạn " nằm trong tay Tổng-Thống Charles De Gaulle và những vị Tổng-Thống kế tiếp của Pháp chắc chắn  có tầm vóc và ý nghĩa khác với ý nghĩa, tầm vóc và hậu quả khi được đặt vào tay một vị Tổng-Thống của một quốc gia "chậm tiến hay đang trên đà phát triển " cùng với ảnh hưởng các « yếu tố môi sinh địa phương »  cộng hưởng.
    Các quốc gia Phi-châu khác nói tiếng Anh  có khuynh hướng gần như bất khả kháng thiên về Tổng-Thống-Chế theo tinh thần Hiến-pháp Philadelphia của Hoa Kỳ, cộng với ảnh hưởng tinh thần "thượng năng " của đa số theo tinh thần "đa số tuyệt đối " trong thể thức bầu cử đơn danh của Anh-quốc.
    Do đó Tổng Thống Chế của nhiều quốc gia Phi-châu nói tiếng  Anh được gắn liền với chính đảng "nặng ký ", nếu không phải là chính đảng duy nhất.
    Tổng-Thống vừa là
    - vị Nguyên-Thủ Quốc-Gia, 
    - vừa là Nhân-Vật Lãnh-đạo " toàn quyền " của Hành-pháp, 
    - có quyền hành tối thượng hơn cả Quốc-hội 
    - và chính đảng của ông là chính đảng "nặng ký ", nếu không phải là duy nhất để thiết định và điều chỉnh chính hướng quốc gia. 
    Chúng ta có thể "mường tượng " được mức độ dân chủ của Quốc Gia vừa kể và những "uẩn ức " tiềm ẩn có thể bùng nổ thành cách mạng, đảo chánh, chỉnh lý, nội chiến đang âm ỷ bên dưới.
    c )  Tổng-Thống-chế  ở một vài quốc gia Á-châu.
    Cũng như ở Mỹ-châu La-tinh và Phi-châu, Tổng-Thống-Chế không gặt hái được những thành quả mong muốn tại Á-châu. 
    - Nam Hàn với Hiến-pháp cuối cùng được ban hành năm 1980 cùng với những cuộc biểu tình, đình công đẩm máu của sinh viên và công nhân chống Chính-phủ, ai trong chúng ta cũng nghe thấy. 
    - Phi-luật-tân vói Hiến-Pháp 1973, bị bãi bỏ sau khi Tổng-Thống Marcos bi truất phế năm 1986 cùng với nền cai trị trên hai mươi năm độc tài của ông, cho đến nay nữ Tổng Thống Corazón Aquino chưa ban hành nổi một Hiến Pháp mới (vì không theo giỏi được tình hình chính trị của Phi-luật-tân, xin quý vị thức giả sửa giúp chúng tôi những tin tức liên hệ cập nhật hơn. Xin đa tạ). 
    - Tại Nam Dương, các cuộc biểu tình đẩm máu của sinh viên giải phóng khỏi phương thức cai trị độc tài mấy chục năm của Tổng-Thống Suharto. 
    - Ở Miến Điện, quân đội đang " xữ lý thường vụ " quyền hành, sau khi đảo chánh, cất chức Nữ Tổng Thống đầu tiên của họ. 
    Tổng Thống Chế 
    *không thành công ở Châu Mỹ La-tinh, 
    *không thành công ở Phi-châu, 
    *không thành  công  ở  Á-châu
    Nói đến "không thành công " của một thể chế chính trị là nói đến  đất nước bất ổn, nghèo đói, ngu dốt, đảo chánh, lật đổ, cướp chính quyền đẩm máu và chết chóc. 
    Tất cả những điều đó không có nghĩa là Tổng-Thống-chế của Hoa Kỳ là một thể chế không có giá trị. Bởi lẽ người Mỹ đã và đang thành công trên hai trăm năm nay trong việc ổn định và kiến thiết đất nước. Việc không thành công của các quốc gia " chậm tiến " trong việc áp dụng Tổng-Thống-Chế là do những " yếu tố môi sinh địa phương ", như chúng tôi đã có lần đề cập. 
    2- ĐẠI NGHỊ CHẾ  TRONG HIẾN PHÁP WEIMAR  VÀ TRONG HIẾN PHÁP 1949.
    Lịch sử lập  quốc của Hoa Kỳ khác với tiến trình dân chủ hoá đất nước của các Quốc Gia Âu Châu. 
    Cuộc tranh đấu dành quyền tự trị đối với mẩu quốc Anh của 13 Tiểu-bang thuộc địa, thoạt tiên không có gì khác hơn là tranh đấu yêu sách  để được hưởng những gì mà người công dân Anh quốc được hưởng ở tại mẩu quốc, theo tinh thần của các văn bản "Bill of Rights, Magna Carta, Habeas Corpus...". 
    Hoa kỳ cần có một Chính-Phủ trung ương mạnh, không những để tiếp tục lãnh đạo cuộc tranh đấu dành độc lập khỏi chế độ thuộc địa của mẩu quốc Anh, mà còn là trung tâm của sự hợp nhất của 13 Tiểu-bang cựu thuộc địa với nhau để thành lập một quốc gia mới ( P. Biscaretti di Ruffìa, op. cit. 144 - 151).
    Trái lại đối với người dân Âu-Châu lục địa, lịch sử xây dựng thể chế dân chủ đất nước họ là lịch sử cách mạng, lật đổ..., và biến chuyển từ thể chế quân chủ độc tôn, lãnh chúa và bạo chúa độc tài, tự tôn thành thể chế cộng hoà dân chủ hay quân chủ lập hiến.
    -    Cách-mạng lật đổ và đạp đổ như Cách Mạng 1789 của Pháp,
    -    Cách-mạng lật đổ như Cách-mạng 9.11.1918 của Đức hạ bệ nền quân chủ của Hoàng Gia Hohenzollern. 
    -    Lấn áp và áp đặt dần dần  như hành động của dân chúng Anh quốc đối với Hoàng-gia: "no taxation without representation" (nếu Nhà Vua không cho thêm đại diện của làng xã vào Đại-Hội Đồng, dân chúng không đồng thuận trả thuế thêm nữa cho Hoàng-gia); hoặc cuộc lật đổ bằng bạo động của dân chúng Anh đối với triều đại Tudor (1485-1603) và Stuart (1603-1714). 
    Đó là hai phương thức mà các quốc gia Âu-châu biến cải quốc gia họ từ Quân-chủ hay Lãnh-Chúa độc tôn đến thể chế dân chủ hiện đại. 
    Người dân Âu-châu chỉ có thể yên tâm, nếu những ai hành xử quyền lực quốc gia không thể đi ra ngoài lãnh vực và thời gian hạn định được Hiến-Pháp xác nhận (tính cách bảo chứng nguyên thủy của Hiến-Pháp hay "Quốc-Gia Pháp-trị ").
    Đàng khác qua các kinh nghiệm mà họ đã phải trả bằng máu và nước mắt,  để đạt được nền dân chủ hiện nay, người dân Âu-Châu sẽ không dễ gì giao quyền bính quốc gia tập trung vào tay một người vừa là Nguyên-Thủ Quốc-Gia, vừa Lãnh-Đạo Hành-pháp, đôi khi có cơ năng chèn ép cả Lập-pháp.
    Hiểu được tiến trình lịch sữ  dân chủ hoá và tâm thức đó, chúng ta hiểu được tại sao các quốc gia Âu-châu, nhứt là Tây-Âu, không một Quốc Gia nào chọn Tổng-Thống-Chế làm thể thức tổ chức Chính Quyền cho quốc gia mình ( Sergio Ortino, Diritto Costituzionale Comparato, Bologna, Il Mulino, 1994,124-125; 184-187;450-460).
    Đối với người Âu-châu, 
    -vị trí và quyền hạn của Vị Nguyên-thủ Quốc-gia phải nằm trên bình diện và lãnh vực khác, đối với vị Lãnh-Đạo Hành-Pháp và của cả Chính-Phủ. 
    - Kế đến nhu cầu cũng như ý kiến,  ước vọng của người dân, sở hữu chủ của quyền lực tối thượng quốc gia (dân chủ: chủ quyền tối thượng của quốc gia thuộc về dân), phải luôn luôn hiện diện và làm định hướng cho cuộc sống quốc gia.
    Nhu cầu, ước vọng và ý kiến đó luôn luôn được hiện diện do các dân biểu, nghị sĩ là những người đại diện được dân bầu, thay mặt họ để phát biểu, diễn tả và kiểm soát sao cho hoạt động của Quốc Gia nói chung và của Hành-Pháp nói riêng không đi ra ngoài chính kiến, lãnh vực và thời gian ước định của dân chúng. 
    Do đó một chính quyền vừa được bổ nhiệm phải tuyên thệ trung thành trước Quốc-Hội: 
    "Thủ Tướng Chính Phủ và các vị Bộ Trưởng, trước khi nhậm chức, phải tuyên thệ trong tay Tổng-Thống Cộng-hòa"  ( Điều 93, Hiến Pháp 1947  hiện hành Ý Quốc ).
    "Chính phủ phải được sự tín nhiệm của cả hai Viện Quốc-hội...
    "Nội trong mười ngày sau khi được bổ nhiệm, Chính-Phủ phải trình diện trước Quốc Hội để được Quốc-hội biểu quyết tín nhiệm..."  (Điều 94, id.).
    Và cũng trong cùng một điều khoản, nếu 1/10 dân biểu Quốc-Hội đồng thuận, Quốc-Hội có thể quyết định duyệt xét thể thức bất tín nhiện Chính-Phủ  và buộc Chính-Phủ phải từ chức (  Điều 94, id.)
    Chúng tôi vừa trích dẫn một vài điều khoản của Hiến-Pháp 1947 hiện hành Ý Quốc. Đó cũng là ý nghĩa của các điều khoản tương tợ của các Hiến-Pháp Cộng Hoà Liên Bang  Đức, Pháp cũng như Hiến-Pháp của hầu hết các quốc gia Âu-Châu khác. 
    Chúng tôi cũng vừa nêu lên một vài tư tưởng then chốt của nền Đại-Nghị-Chế  trong các Hiến-pháp  trên.
    Và như ở những dòng đầu của bài nầy, chúng tôi có đề cập đến tính cách bất ổn định của phương thức tổ chức quốc gia theo Đại-Nghị-Chế. 
    Có lẽ kỷ lục bất ổn định của các cơ chế quốc gia, không quốc gia Âu-Châu nào vượt thắng nổi nước  Ý. 
    Tính đến năm 1997, chúng tôi đang viết cho quý độc giả những dòng nầy năm 2000, sau 50 năm Hiến-Pháp Ý được ban hành, nước Ý đã có đến hơn 50 Chính-Phủ. 
    Như vậy tính trung bình, các Chính-Phủ Ý đều chết non chưa đầy một tuổi.
    Với nền Hành-Pháp bất ổn định như vậy, quốc gia khó lòng mà thực hiện được những đồ án phát triển theo kế hoạch dự tính được. Người ta quy trách cho thể thức bầu cữ theo đa số tỷ lệ của Ý, làm cho chính trường Ý lạm phát chính đảng (hiện Ý có đến 41 chính đảng trong Quốc-hội). Người ta đang nghĩ đến các phương thức cải cách.
    Một trong những quốc gia có tổ chức quốc gia ổn định nhứt trong các nước Đại-nghị-chế là Anh Quốc, nhờ thể thức đầu phiếu đơn danh và theo hệ thống đa số tuyệt đối. Với thể thức "Ai nhiều phiếu thì chiếm ghế " (First - past the post), chính trường Anh Quốc chỉ gồm có hai đảng (đảng thắng cữ đương quyền và đảng đối lập). 
    Đảng thắng cữ chiếm đa số trong Quốc-Hội và cũng là đa số "đồng thuận tín nhiệm Chính-Phủ cho đến hết nhiệm kỳ  ". 
    Thành phần đa số ủng hộ Chính-Phủ không phải là đa số hợp thành liên đảng, nên chuyện "nửa đường lở gánh sang ngang"  hay "lừa thầy phản bạn" làm cho Chính Phủ  "gẫy gánh giữa đường " là điều khó có thể xảy ra.  
    Ngoại trừ Anh quốc, hầu hết các quốc gia Đại-Nghị-Chế Âu-châu đều theo thể thức bầu cử theo đa số tỷ lệ (majorité  proportionelle). 
    Họ  rằng đa số tuyệt đối (magiorité absolue) và đơn vị bầu cữ đơn danh (collège uninominal) đưa dến tổ chức quốc gia ổn định, nhứt là Hành-Pháp được vững chắc (như đã vừa đề cập ở trên), nhưng là phương thức bầu cữ không làm bộc phát được hết nguyện vọng của mọi từng lớp dân chúng trong cộng đồng quốc gia. 
    Có chăng nền dân chủ chỉ được thực thi ở lần bầu cữ đầu tiên. 
    Từ đó trở đi, hai chính đảng chiếm đa số (chính đảng đương quyền và chính đảng đối lập) hành xử một loại hình thức "độc tài dân chủ " (dictature démocratique). 
    Các chính đảng thiểu số (cũng là những chính đảng hợp hiến, cũng có quyền nói lên ý kiến, nguyện vọng, nhu cầu của thành phần dân chúng trong cộng đồng quốc gia) không còn có cách nào khác  phát biểu ý kiến  nếu không hoà tan vào một trong hai chính đảng đa số, bị các chính đảng đa số "cả vú lấp miệng em " ( Sergio Ortino, op. cit. , 450-453). 
    Đối với người Âu-Châu, nếu đã tuyên bố rằng Quốc Gia được tổ chức trên nền tảng thể chế dân chủ, thì trong Quốc Gia không ai là người "thấp cổ bé miệng ":
    "Bổn phận của quốc gia Dân-Chủ Cộng-hoà là dẹp bỏ đi những chướng ngại vật về phương diện kinh tế và xã hội (cả chính trị, luật pháp, y tế, giáo dục...) là những chướng ngại vật, giới hạn thực sự tự do và bình đẳng của người dân, không cho phép họ phát triển hoàn hảo chính bản thân  mình và tham gia thực sự vào tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của xứ sở"  (  Điều 3, đoạn 2, Hiến Pháp 1947 hiện hành Ý Quốc).
    Đó là tư tưởng và cũng là mục đích tổ chức quốc gia của người  Âu-Châu.
    Thể thức bầu cữ theo đa số tỷ lệ và tổ chức quốc gia theo Đại-Nghị-chế có nhưng bất toàn của nó, như đã nói, nhưng là phương thức dân chủ  tôn trọng bình đẳng và nhân bản. 
    Nhiều cách thức được các quốc gia Âu-Châu suy tư và áp dụng để giảm thiểu những bất toàn của đa số tỷ lệ và Đại-Nghị-Chế. 
    Nước Pháp với thể thức bầu cử hai lần và "Bán Tổng-thống-chế " (Semi-Présidentialisme). 
    Một số trường hợp lủng củng trong cuộc "sống chung" (cohabitation) giữa Tổng-thống và Thủ-tướng, nhứt là trong trường hợp Tổng-Thống và Thủ-Tướng thuộc hai màu cờ đảng phái khác nhau. Nhưng tổ chức quốc gia Pháp không phải là không tạo được một cuộc sống điều hòa.Và Pháp Quốc hiện nay không phải là một quốc gia "chậm tiến, kém mở mang ".
    Nhưng điều mà chúng tôi muốn đề nghị đến quý bạn đọc, không phải là trường hợp "khá thành công " của Pháp, mà là phương thức tổ chức ổn định của Cộng-Hoà Liên-Bang Đức hiện nay, sau kinh nghiệm không mấy tốt đẹp của nền Đệ-Nhất Cộng-hoà với Hiến-Pháp Weimar.
    1 - Đệ Nhất Cộng Hoà Weimar. 
    Tiếp theo những cuộc tranh đấu, xuống đường xôi động, ngày 09.11.1918, ông Tổng-Thư-Ký Philipp Scheidemann tuyên bố cáo chung nền Quân-chủ Hohenzollern và thiết lập thể chế Đệ  Nhất Cộng-Hoà Đức Quốc.
    Ngày 12.11.1918  Hội-Đồng các Ủy-Ban Đại-chúng (Rat der Volksbeauftragen)  tuyên bố:
     "Mọi cuộc bầu cữ các Hội-Đồng Đại-diện phải được thực hiện trên nền tảng một lá phiếu bình đẳng, kín, trực tiếp, phổ quát  của mọi công dân đến 20 tuổi trưởng thành, của cả hai phái tính và theo các nguyên tắc tỷ lệ ".
    Nguyên tắc bầu cữ theo đa số tỷ lệ được áp dụng lần đầu tiên trong việc bầu Quốc-Hội Lập-Hiến 30.11.1918 để chọn 423 đại biểu thuộc 37 đơn vị bầu cữ.
    Mỗi đơn vị được cữ từ 6 đến 17 đại biểu, theo hệ thống danh sách cố định (hệ thống Hondt) và không tái dụng phần còn lại của số phiếu các danh sách không có đại biểu được trúng cữ. 
    Nguyên tắc bầu cữ theo đa số tỷ lệ được Hội-Đồng các Ủy-Ban Đại-Chúng tuyên bố trên, đã được Hiến-pháp Weimar 1919 chấp thuận ở điều 22 .
    Tiếp đến, một đạo luật 27.04.1920 ra lệnh bãi bỏ hệ thống Hondt (danh sách cố định: mỗi chính đảng đưa ra danh sách ứng cữ viên theo thứ tự được sắp xếp, cữ tri không được bầu cho ứng cữ viên mình thích, mà phải dồn phiếu cho chính đảng. Ai đứng đầu danh sách sẽ được trúng tuyển trước, số phiếu còn lại sẽ được chia cho các ứng viên theo thứ tự kế tiếp...).
    Ngoài ra, tinh thần bình đẳng dân chủ còn được thể hiện chính xác hơn qua việc "vớt thêm " các số phiếu dành cho các ứng viên không trúng tuyển ở các đơn vị địa phương, cộng thành một danh sách toàn quốc: tổng số phiếu được chia cho con số 60.000 để chọn thêm các ứng viên không được trúng cữ tại đơn vị địa phương. Hiến-Pháp Weimar đặt giới hạn cho việc "vớt thêm" là một chính đảng không thể được tham dự vào danh sách « vớt thêm », nếu  có ứng viên đã trúng cữ  ở địa phương  (Điều 32 ).
    Đạo luật 27.04.1920 (bãi bỏ danh sách cố định, hệ thống Hondt) cũng như  việc "vớt thêm " số phiếu thành danh sách quốc gia, cho thấy ý chí thực hiện bình đẳng dân chủ thực hữu của người dân Đức nói riêng và người dân Âu-Châu nói chung, theo tinh thần "...lá phiếu bình đẳng, trực tiếp, phổ quát..." (Hội-Đồng các Ủy-Ban Đại-Chúng). 
    Lật đổ thể chế Quân-Chủ để thiết lập một thể chế Dân-Chủ Cộng-Hoà không có nghĩa chỉ là tuyên bố một hình thức Quốc Gia khác biệt, mà nêu lên một định chế pháp trị, được thể hiện trước tiên bằng Hiến-Pháp, để đáp ứng những nhu cầu của hình thức Quốc Gia mới và đưa ra những phương thức giải quyết.
    Hiến-Pháp Weimar 1919 của nước Đức tự ý thức được những điều đó và là một trong những Hiến-Pháp khuôn mẩu cho thể chế các Quốc Gia dân chủ tự do Âu Châu.
    Ngoài ra điểm son  dân chủ bình đẳng trong thể thức bầu cữ chúng ta vừa nêu lên ở trên, Hiến-Pháp Weimar còn cung cấp cho Hiến-Pháp các quốc gia Âu-Châu khác quan niệm chính trị mới mẽ trong tổ chức quốc gia.
    Trước Hiến-Pháp Weimar, các quyền căn bản của con người đều được các thể chế quốc gia quan niệm dưới hình thức tiêu cực, tức là " tự do khỏi bị quyền lực quốc gia bó buộc " ( Sergio Ortino, op. cit.,453).
    Hiến-Pháp Weimar không những đặt các quyền con người trong phạm vi bảo vệ con người "khỏi những vi phạm vừa kể " mà quan niệm đặt những nền tảng cơ bản cần thiết  để con người có thể đạt được những mục đích kinh tế - xã hội từ phía tổ chức Quốc Gia cũng như từ phía những  chủ thể công cộng, đoàn thể và cá nhân khác.

    Tinh thần của Hiến-Pháp Weimar 1919 là định hướng cho quan niệm "dân chủ thực hữu " Hiến-pháp 1947 của Ý mà chúng tôi đã trích dẩn ở trên:
     "Bổn phận của Quốc-Gia Dân-chủ Cộng-hoà là dẹp bỏ đi những chướng ngại vật về phương diện kinh tế và xã hội,là những chướng ngại vật cản trở thực sự tự do và bình đẳng của người dân..." (Điều 3, đoạn 2,  id).
    Tiếp theo tinh thần "dân chủ thực hữu " về phương diện kinh tế vừa kể, Hiến-pháp Weimar đề cập đến "Hội-Đồng Kinh-Tế Quốc-gia " ( Điều 165),sẽ được thiết lập để biến mục đích kinh tế của người dân thành khả thi.
    Hội-Đồng Kinh-Tế Quốc-Gia vừa kể được Hiến-Pháp 1947 nước Ý lấy lại và khai triển thêm:
    "Hội-Đồng Kinh-Tế và Lao-Động Quốc-Gia gồm có, tùy theo thể thức được luật pháp ấn định, những thành phần có kinh nghiệm và đại diện các tổ chức sản xuất tùy theo lượng số liên quan đến tầm mức quan trọng và phẩm chất của họ. Hội-đồng là cơ quan cố vấn cho các viện Quốc-Hội và Chính-Phủ đối vối lãnh vực và tùy theo nhiệm vụ được luật pháp quy trách cho. Hội-Đồng có thẩm quyền sáng kiến lập pháp và có thể cộng tác trong việc soạn thảo dự án luật về kinh tế và xã hội theo nguyên tắc và trong giới mức được luật pháp quy định"  ( Điều 99, Hiến-pháp  1947 hiện hành của nước Ý).    
    Đọc qua hai tư tưởng về chính hướng thực hiện dân chủ vưà kể, cũng như những điều khoản kế tiếp của Hiến-Pháp Weimar, ai cũng có thể thấy được mối lo lắng của những nhà soạn thảo Hiến-Pháp lúc đó là làm thế nào đem lại nền dân chủ thực sự và tránh các nguy cơ độc tài, có thể phát hiện ngay cả trong thể chế dân chủ.
    Như trên chúng ta đã có dịp đề cập, một trong những phương thức tránh độc tài là áp dụng  phương thức Đại-Nghị-Chế . 
    Nguyên lý nền tảng đó được Hiến-Pháp Weimar xác nhận:
     "Vị Thủ Tướng và các Bộ Trưởng phải được sự tín nhiệm của Hạ-viện để hành xữ các nhiệm vụ của mình" ( Điều 99, Hiến-pháp  1919 Weimar ).    
    Đó là nguyên lý chung cho các thể chế Đại-Nghị. 
    Kế đến mối lo lắng của các vị soạn thảo Hiến-pháp  là làm thế nào có thể luôn luôn đặt Hành-Pháp trong vòng kiểm soát, tránh mọi hành động "lộng hành " của quân chủ và lãnh chúa độc tài trong qúa khứ. 
    Hiểu được tâm trạng đó, chúng ta nhận thức được tại sao sau khi xác định vị Nguyên-Thủ Quốc-Gia được tuyển chọn do phổ thông đầu phiếu (Điều 41) .
    Hiến-pháp Weimar quy trách cho Tổng-thống có quyền "bổ nhiệm và cất chức  Thủ-Tướng và các Bộ-Trưởng", như là quyền tự lập của Tổng-Thống.
    Còn nữa, Chính-Phủ có thể bị Hạ-Viện lật đổ vô điều kiện. Và với 2/3 số dân biểu đồng thuận, Hạ-Viện cũng có thể triệu tập trưng cầu dân ý để thu hồi quyền hạn Tổng-Thống trước nhiệm kỳ ( Điều 43, đoạn 2, Hiến-pháp Weimar 1919 Đức Quốc).
    Điều đó cho thấy rằng các vị soạn thảo Hiến-Pháp Weimar nói riêng và dân chúng Đức nói chung hoàn toàn đặt niềm tin của họ vào Quốc-hội như là nền tảng bảo chứng chống mọi độc tài, bất cứ từ đâu đến, từ Hành-Pháp hay từ Tổng-Thống cũng vậy.
    Trong trường hợp truất nhiệm Tổng-Thống của điều 43 vừa kể, Hạ-Viện giao lại cho dân chúng giải quyết sự tranh chấp giữa Tổng-Thống và Quốc-Hội, cho thấy tinh thần dân chủ của dân Đức sát gần với tinh thân dân chủ của Hoa Kỳ hơn là tinh thần "jacobin" của Pháp. 
    Nhưng nếu tinh thần dân chủ của Hiến-Pháp Philadelphia Hoa Kỳ tạo ra hệ thống giới hạn "Kiểm soát và cân bằng" (Checks and balances): các cơ chế hiến định quốc gia kiểm soát và giới hạn lẫn nhau, nhưng  mỗi cơ quan có khả năng hành xử  quyền bính trong lãnh vực của mình trong khoản một thời gian hạn định, trái lại  trong Hiến-Pháp Weimar, các cơ chế hiến định của quốc gia không những  bị giới hạn tương quan nhau, mà cơ quan nầy có thể bị cơ quan khác gián đọan hẳn hoạt động bằng cách bãi nhiệm trước định kỳ: 
    -    Tổng-Thống bị dân chúng bãi nhiệm qua cuộc trưng cầu dân ý do Hạ-viện triệu tập;
    -    Thủ-Tướng và các vị Bộ-Trưởng, do Tổng-Thống tự quyết định lúc nào cũng được hoặc do Hạ-Viện bỏ phiếu bất tín nhiệm; 
    -    Hạ-Viện có thể bị Tổng Thống giải tán tùy lối suy tư của ông ( Điều 25 ).
    -    trái lại Hạ-Viện cũng có thể truất phế Tổng-thống qua cuộc trưng cầu dân ý (Điều 43, đoạn 2). 
    Qua những điều vừa duyệt  xét qua, chúng ta có thể mườn tượng được tình trạng bất ổn định của các cơ chế quốc gia. Mục đích của Hiến-Pháp là làm thế nào ngăn chận kịp thời mỗi khi một cơ quan vừa tỏ ra khuynh hướng độc tài, "tự tung tự tác".
    Nhưng thiện ý "ngăn chận kịp thời " đó là cơ hội cho các khuynh hướng đấu tranh chính trị lợi dụng"đập đổ " những gì không thuộc chính kiến của họ. 
    Rất tiếc Hiến-Pháp Weimar không tiên liệu được những lạm dụng đó, nên không nêu ra một điều khoản nào để ngăn chận. 
    Và đó là trường hợp được đảng "Đức-quốc-xã " (Nationalsozialist) và đảng Cộng sản tha hồ đập đổ, truất phế, mà không hề có ý liên kết nhau để hổ trợ một Chính-phủ vững mạnh, chỉ vì họ không tán đồng thể chế dân chủ tự do mà Hiến-pháp Weimar đề xướng. Các cơ chế quốc gia một phần lớn bị tê liệt vì vậy.
    Còn nữa điều 59 của Hiến-Pháp Weimar cho phép Hạ-Viện có quyền đặt trong tình trạng tố giác Tổng-Thống , Thủ-Tướng và các Bộ-Trưởng trước Tối-Cao Pháp-Viện trong trường hợp vi phạm Hiến-Pháp hoặc Luật-Pháp Quốc Gia một các gian manh (Điều 5).
    Một trong những điểm nổi bậc của Hiến-Pháp Weimar là những trường hợp thường xuyên nhờ đến sự can thiệp của thể thức trưng cầu dân ý:
    - Một đạo luật bị Hạ-Viện chống đối, Tổng-Thống có thể can thiệp bằng cách triệu tập  trưng cầu dân ý để dân chúng quyết định ( Điều 73, đoạn 1).
    - Một phần mười (1/10) dân chúng có quyền bầu cữ, có thể đệ trình để tổ chức cuộc trưng cầu dân ý. Trưng cầu dân ý sẽ được bãi bỏ, nếu dự án luật được Hạ Viện đồng thuận biểu quyết không sửa đổi ( Điều 73, đoạn 3).
     - Nếu một phần ba (1/3) dân biểu Hạï-Viện quyết định ngưng công bố một đạo luật,1/20 dân chúng có quyền bỏ  phiếu có thể đề nghị trưng cầu dân ý ( Điều 73, đoạn 2).
    - Tổng-Thống-Chế có quyền triệu tập trưng cầu dân ý, trong trường hợp  có sự bất đồng ý kiến giữa Hạ-Viện và Thượng-Viện về một đạo luật được Hạ-Viện bỏ phiếu tán đồng (Điều 74, đoạn 2).
    - Tổng Thống có độc  quyền triệu tập trưng cầu dân ý  về ngân sách dự đoán cũng như đối với các đạo luật về thuế vụ ( Điều 73, đoạn 5).
    Qua những điều khoản  đó, chúng ta hiểu được mối lo lắng của những vị soạn thảo Hiến-Pháp Weimar : thể chế dân chủ của Cộng-Hoà Dân-Chủ Weimar phải thể hiện thực sự một thể chế, trong đó người dân có thực quyền bày tỏ ý kiến, hướng dẩn chính kiến và can thiệp hữu hiệu vào các hoạt động quốc gia.

    Và không có hình thức nào hữu hiệu hơn là người dân đứng ra can thiệp trực tiếp qua các phiên triệu tập trưng cầu dân ý.
    Đàng khác có lẽ vì quá đặt trọng tâm vào  việc người dân "phải còn nắm thực quyền" trong việc điều khiển quốc gia mà các vị soạn thảo Hiến-Pháp Weimar đã quên đi những yếu tố quan trọng khác trong đường hướng tổ chức xứ sở.
    Đó là thể thức dân chủ đại diện có thể được điều chỉnh và bổ túc thêm bằng thể thức dân chủ trực tiếp, nhưng dân chủ đại diện phải đuợc thiết định thế nào để có thể tự hoạt động đẩy mạnh cho công việc quốc gia được trôi chảy, nhờ đó dân chủ trực tiếp mới có thể tạo được những những lãnh vực sáng tạo và xây dựng, thay vì phải luôn luôn chạy theo để điều chỉnh và nâng đở. 
    Nếu không thể thức dân chủ đại diện không bao giờ có thể tự mình bước đi được và quốc gia không bao giờ tiến được. 
    Như trên chúng tôi đã đề cập là sự khác biệt giữa một quốc gia quân chủ, độc tài, cộng sản hay dân chủ tự do nhân bản không chỉ hệ tại ở chổ đổi danh xưng từ độc tài, cộng sản ra dân chủ tự do rồi tuyên bố, mà còn quan trọng ở chổ  tổ chức được những cơ cấu quốc gia có khả năng và điều kiện hoạt động khả dĩ đem lại kết quả mong muốn mà thể chế quốc gia nhằm đạt được cho người dân.
    Các vị soạn thảo Hiến-Pháp Cộng Hoà Weimar đã cố gắng  vượt bực để tạo nên các cơ cấu quốc gia cân bằng đối lực để tránh độc tài, đại họa mà dân Đức vừa vượt thoát như cơn ác mộng bằng Hiến-Pháp Weimar 1919, nhưng các vị  chưa tạo nổi một hệ thống cơ cấu Quốc Gia có khả năng lãnh đạo và hoạt động hữu hiệu đạt được những mục tiêu và bảo đãm cho nên dân chủ tồn tại và lớn mạnh. 
    Muốn thiết lập Quốc Gia trên thể chế dân chủ tự do vững bền và phát triển, việc tạo được các cơ chế quyền lực quốc gia cân bằng để tránh lạm quyền thôi, chưa đủ. Quốc gia cần có những cơ chế đa diện và hiệu năng , được thiết lập trên nền tảng dân chủ và quốc gia pháp trị, có khả năng hành xử quyền năng quốc gia với đủ uy quyền và kịp thời để đối ứng với nhu cầu muôn mặt mà quốc gia đang cần đến.
    Nếu không, cho dù lý tưởng có cao cả đến đâu, nhưng cơ cấu quyền lực quốc gia không có khả năng đem lại mục đích mong muốn, người dân sẽ chán nãn, đến một lúc nào đó họ cũng sẽ không còn tha thiết với lý tưởng cao đẹp nữa. 
    Đó là đìều đã xảy ra cho Đệ-Nhất Cộng-Hoà Đức-Quốc Weimar.
    Cộng-Hoà Weimar thiếu một cơ chế lãnh đạo vững chắc. Chính-Phủ không hiệu năng. 
    -    Hạ-Viện bị giải nhiệm hai lần năm 1932. 
    -    Các lực lượng chính trị trong Quốc-Hội yếu kém. 
    -    Tổng-Thống lạm dụng việc  xử dụng quyền hành thường nhật như trường hợp bất thường và khẩn cấp được điều 48 Hiến-Pháp Weimar quy định. 
    -    Tình trạng không hiệu năng, yếu kém và lạm quyền đó mở đường cho Hitler, được chọn làm Thủ-Tướng ngày 30.01.1930, tiến đến đoạt luôn cả quyền hành của Vị Nguyêân-Thủ Quốc-gia,"Fuehrer und Kanzler " (Vị Lãnh-đạo và Thủ-tướng), biến Cộng-hoà Weimar thành quốc gia chuyên chế.
    Nhận xét như vậy, là nhận xét  của chúng ta ở vào năm 2000, trên 80 năm sau đối với Hiến-Pháp Weimar và của những người đang sống trong các quốc gia Âu-Châu dân chủ, tự do,  hoà bình  và nhất là của những người đã được tư tưởng của Hiến-Pháp CHLB Đức 1949 làm nền tảng và hướng dẩn. 
    Chúng ta không thể không thấy được công sức của những vị soạn thảo Hiến-pháp  Weimar 1919 góp phần đem lại dân chủ, tự do và nhân bản cho Đức-quốc nói riêng và cho các quốc gia Âu-châu nói chung.

    Cùng với những tư tưởng và lòng kính trọng vừa kể đối với những vị đã có công soạn thảo Hiến-Pháp Weimar 1919, chúng ta bước sang học những bài học quan trọng về thể thức ổn định các cơ cấu Quốc Gia của một cường quốc theo Đại-Nghị-Chế như Đức quốc, qua Hiến-Pháp Bonn hay Hiến-Pháp 1949 CHLB. Đức.
    2 - Hiến Pháp 1949 CHLB. Đức, Hành-pháp ổn định. 
    Thế chế Nhân Bản và Dân Chủ  là thể chế được mọi người mơ ước.
    Nhưng con người được tôn trọng trên nhân phẩm của mình và người dân là chủ nhân thực sự của đất nước, làm thế nào để giữ vững được Nhân Bản và  Dân Chủ, phương thế ổn định điều hành đất nước, không phải là mơ tưởng , tuyên bố và ngồi chờ, để người khác thương xót ban cho, mà là đắn đo, suy tư, phòng ngừa và xăn tay áo thực hiện mới có được. 
    Người dân Tây Âu đã phải trải qua bao nhiêu kinh nghiệm bằng máu và nước mắt trong tiến trình biến Quốc Gia họ từ Quân Chủ Độc Tài, trong đó con người chỉ là thần dân nô lệ, đến thể chế Nhân Bản và Dân Chủ. Cách Mạng Pháp Quốc 1789 đẩm máu với các máy chém vẫn còn đó, ai trong chúng ta cũng nghe nói tới.
    Và nếu người dân Tây Âu đã phải trả đắc giá để có được thể chế Nhân Bản và  Dân Chủ, thì người Đức là những người vừa mới trải qua kinh nghiệm nóng bỏng với nền Cộng Hoà Dân Chủ còn phôi thai của họ trong Hiến Pháp Weimar 1919, bị Hitler lợi dụng những chỗ hỏng  các điều khoản Hiến Pháp, biến Dân Chủ thành độc tài, đưa đất nước vào thế chiến thứ hai, tạo ra tan tóc và đổ nát.
    Nói lên viễn ảnh vừa kể của cách tổ chức Dân Chủ còn thô thiển, thiếu kinh nghiệm của nền Cộng Hoà Weimar để chúng ta ý thức được các nỗ lực suy tư, tiền liệu, quyết tâm củng cố và bảo vệ thể chế Nhân Bản và  Dân Chủ của các vị soạn thảo Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức.
    Đọc điều khoản đầu tiên của Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức, ai cũng thấy được quyết tâm của các vị soạn thảo Hiến Pháp lúc đó nhứt định bảo vệ con người với địa vị và các quyền bất khả xâm phạm của mình và quy trách cho cơ chế Quốc Gia có bổn phận phải thực thi.
    Con người trong Hiến Pháp 1949 CHLBD là con người với
    -    “ Phẩm giá con người bất khả xâm phạm…
    -    “Các quyền căn bản sẽ được kể sau đây có giá trị bắt buộc đối với lập pháp, hành pháp và tư pháp, như là quyền bắt buộc trực tiếp ” (Điều 1, đoạn 1 và 3 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức, CHLBD).
    Và đây là định nghĩa thế chế Dân Chủ của Quốc Gia:
    -    “ Cộng Hoà Liên Bang Đức là một Quốc Gia Liên Bang, dân chủ và xã hội ” (Điều 20).
    Hai nguyên tắc vừa kể được các vị soạn thảo Hiến Pháp 1949 quyết định bảo đảm bằng mọi giá, kể cả  việc chống lại 2/3 số phiếu đồng thuận của Hạ Viện và Thượng Viện, hay cả trưng cầu dân ý cũng không có quyền sửa đổi:
    - “ Không thể chấp nhận bất cứ một sự sửa đổi nào đối với Hiến Pháp nầy liên quan đến mối tương quan giữa Liên Bang và các Tiểu Bang, đến sự tham dự vào quyền lập pháp của các Tiểu Bang hay đến các nguyên tắc được tuyên bố trong các điều khoản 1 và 20 ” (Điều 79, đoạn 3 Hiến Pháp 1949 CHLBD).
    -    Đặt con người với nhân phẩm và các quyền bất khả xâm phạm của mình vào chính thân bài của Hiến Pháp, viết thành điều khoản luật thực định ( loi positive), bắt buộc phải thực thi,
    -    đặt vào điều khoản đầu tiên, điều 1 của Hiến Pháp, để long trọng tuyên bố như là những giá trị tối thượng bất khả xâm phạm,
    -    quy trách trực tiếp cho cơ chế Quốc Gia phải bảo đảm và tạo điều kiện để thực hiện và phát huy
    -    tuyên bố nguyên tắc Nhân Bản và Dân Chủ thành những qui luật bắt buộc (normes préceptives) và đạo luật thực định ( lois positives), điều 79 Hiến Pháp 1949 CHLBD,  bất di dịch và bắt buộc phải tuân theo vô điều kiện,
    Các hình thức vừa kể là những đặc tính của một Hiến Pháp cứng rắn, mà các vị soạn thảo Hiến Pháp 1949 CHLBD dùng để xác quyết ý chí bảo vệ thể chế Nhân Bản và Dân Chủ cho dân tộc Đức. 
    Nhưng các vị  vẫn chưa ngủ yên trước viễn ảnh kho tàng vô giá, thể chế Nhân Bản và Dân Chủ, mà  dân tộc Đức đang  giao phó trong tay các vị.
    Nhân Bản và Dân Chủ không phải chỉ tuyên bố mà có.
    Muốn cho đất nước có được thể chế Nhân Bản và Dân Chủ thực sự cần phải suy tư ra nhiều phương cách để
    -    “ Phẩm giá con người bất khả xâm phạm ” (Điều 1, đoạn 1 Hiến Pháp CHLBD)
    -    và “ quyền tối thượng của Quốc Gia thuộc về dân ”, người dân luôn luôn vẫn còn có khả năng nắm lấy và kiểm soát chủ quyền của mình trong tay, trước khi, đang khi và sau khi giao phó cho những người đại diện thay mình để quản trị Quốc Gia.
    Đó là những gì các vị soạn thảo Hiến Pháp 1949 CHLBD đã cùng nhau đắn đo, suy nghĩ và đề thảo ra để thực hiện.
    Các vị đã nghĩ ra các phương thức khởi đầu ngay từ các động tác bầu cử, qua các thể thức kiểm soát trong cơ cấu và nội bộ Quốc Hội Lưỡng Viện, đến cơ quan bảo chứng tối cao, Viện Bảo Hiến để chống độc tài và bất ổn.
    Những phương thức vừa kể chúng tôi đã có dịp bàn đến khi đề cập đến LUẬT B ẦU CỬ , QUỐC HỘI  và VIỆN B ẢO HIẾN.
    Nhưng ai trong chúng ta cũng biết cơ quan thường lạm dụng quyền lực hơn cả trong tổ chức Quốc Gia, không  cơ quan nào khác hơn là Chính Quyền.
    Hành xử quyền lực Quốc Gia để cai trị dân, Chính Quyền thường có khuynh hướng lạm dụng quyền lực, hành xử độc tài, vi phạm luật pháp và thiên vị bè phái, không hiệu năng và  tạo bất công.
    Đó là lý do tại sao các vị soạn thảo Hiến Pháp 1949 CHLBD đã nghĩ ra những mối liên hệ chằn chịt giữa Hành Pháp và Hạ Viện, giữa Hành Pháp và Tổng Thống, giữa Hành Pháp và Thượng Viện, giữa Hạ Viện, Tổng Thống và Thượng Viện.
    Nói cách khác, mối liên hệ giữa Chính Quyền và các cơ quan liên hệ, để tránh độc tài và bất ổn, bảo đảm cho đất nước có được một Chính Quyền bền vững, hiệu năng và không thiên vị.
    Đó là đề tài của bài  đang viết . 
    A - Tuyển chọn người đại diện Chính Quyền trong tiến trình tự nhiên.
    Nhân vật giữ vai chính và then chốt trong Chính Quyền Cộng Hoà Liên Bang Đức là vị Thủ Tướng (Kanzler), được điều 63 Hiến Pháp 1949 CHLBD xác nhận.
    Việc tuyển chọn vị Thủ Tướng được thực hiện qua ba giai đoạn:
    -    “ Thủ Tướng Liên Bang được tuyển chọn không cần bàn cải, theo lời đề nghị của Tổng Thống Liên Bang. 
    -    “Được tuyển chọn ai là người hội đủ số phiếu đa số (tuyệt đối) các thành viên Hạ Viện (Bundestag). Người được chọn phải được Tổng Thống bổ nhiệm” (Điều 63, đoạn 1 và 2 Hiến Pháp 1949 CHLBD).
    *Qua hai đoạn văn vừa trích dẫn, chúng ta thấy rằng theo tiến trình thông thường, Tổng Thống đề nghị với Quốc Hội người mà ông cho là xứng đáng, có tài đức, có khả năng quy tựu đa số thành viên Hạ Viện ủng hộ để hành quyền. 
    *Hạ Viện bỏ phiếu tuyển chọn hay không ( với đa số tuyệt đối) nhân vật được Tổng Thống đề nghị.
    *Và nếu nhân vật đề nghị được Hạ Viện đồng thuận tuyển chọn, Tổng Thống ký sắc lệnh bổ nhiệm ông vào chức vụ Thủ Tướng Liên Bang.
    1-    Cách tuyển chọn và bổ nhiệm.
    Thủ Tướng được tuyển chọn để thành lập Nội Các Chính Phủ không do Tổng Thống tuyển chọn và bổ nhiệm tùy ý, như trong Hiến Pháp Đệ Nhất Cộng Hoà Weimar.
    Chính Phủ của Hiến Pháp 1949 CHLBD được khai sinh bằng thể thức khác biệt hơn, để tránh việc hoàn toàn lệ thuộc vàoTổng Thống, sự việc có thể đưa đến độc tài, quyền tuyển chọn và thành lập Chính Phủ được tập trung vào tay một nhân vật duy nhứt, Tổng Thống. 
    Kinh nghiệm vừa kể đã xảy ra với vị Tổng Thống cuối cùng, bị Hitler áp đặt trong thời Cộng Hoà Weimar, và những gì đã xảy ra sau đó, ai cũng biết ( Pier Giorgio Lucifredi, Appunti di Diritto Costituzionale Comparato, IV, Giuffré, Milano 1992, 61).
    Người dân trong Đại Nghị Chế có thể ngủ yên giấc vì biết “ quyền tối thượng của Quốc Gia thuộc về dân ” hay thể chế Dân Chủ của họ được giao phó cho Hạ Viện, những thành viên ưu tú mà họ đã tuyển chọn trong kỳ phổ thông đầu phiếu vừa qua, có phận sự hành xử và kiểm soát những ai đang thi hành quyền lực Quốc Gia.
    Đó là ý nghĩa của câu nói:
    “ Được tuyển chọn ai là người hội đủ số phiếu đa số ( tuyệt đối) các thành viên Hạ Viện”.
    Và người được tuyển chọn hội đủ các điều kiện vừa kể, “ với số phiếu đa số tuyệt đối các thành viên Hạ Viện ”, Tổng Thống bị bắt buộc phải bổ nhiệm vào chức vụ Thủ Tướng Chính Phủ:
    -    “ Người được chọn phải được Tổng Thống bổ nhiệm ” (Điều 63, đoạn 2, id.). 
    Những gì vừa nói cho thấy Thủ Tướng Chính Phủ do chính Hạ Viện, cơ quan dân cử, tiếng nói của dân chúng,  tuyển chọn, với đa số tuyệt đối các thành viên, chớ không phải do Tổng Thống chỉ định, mặc dầu Tổng Thống có quyền đề nghị người mà ông cho là thích hợp với chức vụ vừa kể.
    Và vì Hạ Viện có quyền tuyển chọn hay không tuyển chọn Thủ Tướng Chính Phủ, nên Hạ Viện cũng có quyền truất phế Thủ Tướng.
    Tổng Thống đề nghị là một chuyện, đề nghị có được Hạ Viện chấp thuận hay không là chuyện khác.
    Đó là những trường hợp chúng ta sẽ bàn đến trong những dòng tới.
    Dựa trên tiêu chuẩn nào Tổng Thống Liên Bang đề nghị với Hạ Viện nhân vật mà ông cho là xứng đáng với chức vụ Thủ Tướng?
    Sau những ngày bầu cử chính trị có kết quả, khi Hạ Viện vừa sắp xếp xong các chức vụ và văn phòng nội bộ, những cuộc thăm do và thương lượng giữa các lực lượng chính trị trong Hạ Viện bắt đầu diển ra. 
    Sau khi hội đàm với các vị lãnh đạo tối cao của các chính đảng, Tổng Thống có thể ủy quyền cho một nhà lãnh đạo của một chính đảng ( thường là chính đảng chiếm đa số) thành lập Chính Phủ.
    Nhà chính trị được ủy thác, sau khi nhận thấy rằng mình có thể tin cậy được vào sự ủng hộ của một số lớn dân biểu Hạ Viện, ông có thể trả lời chấp nhận lãnh nhiệm vụ Tổng Thống giao phó. 
    Tổng Thống đề nghị ông với Hạ Viện để được bỏ phiếu tuyển chọn.
    Vị Thủ Tướng, dựa vào những cuộc thăm do và đồng thuận trước đó, sẽ phát hoạ ra danh sách các Bộ Trưởng, thành phần Chính Phủ Liên Hiệp và đệ trình lên TổngmThống để ông và cả Chính Phủ được ủy nhiệm.
    Thủ Tướng và Chính Phủ do ông lãnh đạo được Tổng Thống ủy nhiệm, phải tuyên thệ trước Hạ Viện trước khi nhậm chức:
    -    “ Thủ Tướng và các Bộ Trưởng Liên Bang tuyên thệ trước Hạ Viện, như điều 56 quy định khi nhậm chức” (Điều 64, Hiến Pháp 1949 CHLBD).
    Vì là một Quốc Gia  Đại Nghị Chế, một lần nữa chúng ta thấy được sự thành hình cũng như sự tồn vong của Chính Quyền Cộng Hoà Liên Bang Đức tùy thuộc vào quyết định của Hạ Viện, cơ quan dân cử do cuộc phổ thông đầu phiếu, và là tiếng nói của dân chúng.
    Chính Quyền Dân Chủ là vậy, là Chính Quyền phát xuất do sự đồng thuận của dân chúng và tồn tại cho đến lúc nào dân chúng, qua Hạ Viện, cơ quan phát ngôn của mình, đồng thuận chấp nhận cho tồn tại.
    Ngược lại là Chính Quyền độc tài, tham quyền cố vị, đi ngược lại nguyên tắc dân chủ.  Thủ Tướng được Tổng Thống đề nghị và Hạ Viện tuyển cử (Điều 63, đoạn 1 và 2, id.) cho thấy Hiến Pháp 1949 CHLBD muốn quy hết trách nhiệm của Chính Phủ vào cá nhân vị Thủ Tướng liên bang. 
    Các Bộ Trưởng cũng được Tổng Thống ủy nhiệm, nhưng khác với Hiến Pháp Weimar, các Bộ Trưởng không có trách nhiệm trực tiếp, cũng không có trách nhiệm từng cá nhân trước Hạ Viện, bởi lẽ họ không do Hạ Viện tuyển cử và cũng không nhận được tín nhiệm trực tiếp của Hạ Viện. 
    Chỉ có Thủ Tướng là người được Hạ Viện trực tiếp tuyển cử và là người duy nhứt trong Chính Phủ được hay bị Hạ Viện bỏ phiếu tín nhiệm hay bất tín nhiệm:
    - “ Hạ Viện có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Thủ Tướng liên bang, khi…” (Điều 67, đoạn 1, id.).
    2- Quy trách tất cả trách nhiệm vào cá nhân Thủ Tướng.
    Do đặc tính quy trách tất cả trách nhiệm hiến định cũng như tổ chức hành pháp và việc quy tựu đa số đồng thuận Hạ Viện vào cá nhân Thủ Tướng, mà tổ chức Quốc Gia CHLBD được gọi là “ Dân Chủ Thủ Tướng Chế ” ( Kanzlerdemokratie).
    Việc tập trung vào con người vị Thủ Tướng sự đồng thuận của Hạ Viện trong việc tuyển chọn, cũng như trong việc “ chuẩn y hay bác bỏ ”, “ bất tín nhiệm ”, tránh cho việc bất đồng chính kiến giữa Thủ Tướng và các Bộ Trưởng làm cho Chính Phủ suy yếu.
    Và cũng do đó, việc bải nhiệm hay tự ý rút lui của một hay một vài Bộ Trưởng sẽ không làm cho Chính Phủ bị khủng hoảng. Nói cách khác, Chính Phủ Cộng Hoà Liên Bang Đức là một Chính Phủ mạnh, độc đảng hay liên hiệp cũng vậy, quy tựu chung quanh con người vị Thủ Tướng liên bang.
    Bổn phận chính yếu của Thủ Tướng là thiết định đường lối chính trị Quốc Gia và chịu trách nhiệm về những quyết định của mình:
    -    “ Thủ Tướng liên bang định đoạt các chính hướng tổng quát ( die Richtlinien der Politik) và nhận lãnh trách nhiệm về các quyết định đó ” (Điều 65, id.).
    Dưới một khía nhãn quang khác, việc Hạ Viện, cơ quan dân cử thể hiện tiếng nói của dân chúng, biểu quyết tín nhiệm hay bất tín nhiệm chỉ đối với một mình Thủ Tướng, cũng như việc chỉ có Thủ Tướng hoàn toàn chịu trách nhiệm về đường lối chính trị của Chính Phủ, cho thấy Thủ Tướng có quyền vô hạn định trong việc đề cử hay thu hồi chức vụ các Bộ Trưởng:
    -    “ Các Bộ trưởng liên bang được Tổng Thồng liên bang bổ nhiệm hay thu hồi chức vụ theo lời đề nghị của Thủ Tướng” (Điều 64, đoạn 1, id.).
    Đó là điều mà các vị soạn thảo Hiến Pháp 1949 CHLBD nhằm tạo ra một Chính Quyền họp nhứt, có quyền hạn mạnh mẽ và hữu hiệu.
    3 - Các Bộ Trưởng theo chính hướng của Thủ Tướng. 
    Tuy nhiên mỗi Bộ Trưởng trong lằn mức của chính hướng chung được đề ra, đều có quyền tự lập và chịu trách nhiệm về các hoạt động của các Bộ mà mình được giao phó:
    - “ Trong lằn mức của các chính hướng vừa kể, mỗi Bộ trưởng liên bang, một cách tự lập và dưới trách nhiệm của mình, điều khiển các hoạt động thuộc thẩm quyền của mình…” (Điều 65, đoạn 1 Hiến Pháp 1949 CHLBD).
    Chức vụ của Thủ Tướng và các Bộ trưởng liên bang chấm dứt khi Hạ Viện tân cử nhóm họp phiên họp đầu tiên:
    - “ Chức vụ của Thủ Tướng và các Bộ Trưởng liên bang chấm dứt khi Hạ Viện mới nhóm họp; ngoài ra chức vụ của các Bộ trưởng liên bang sẽ chấm dứt mỗi khi Thủ Tướng chấm dứt nhiệm sở của mình” ( Điều 69, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 CHLBD).
    Câu trích dẫn vừa qua cho thấy Hiến Pháp 1949 CHLBD nhằm bảo đảm sự vững mạnh của Chính Quyền kéo dài song song và cùng thời gian với nhiệm kỳ của Hạ Viện.
     Bởi lẽ một Quốc Gia muốn được phát triển tiến bộ, cần có một cơ quan Hành Pháp vững mạnh , yên tâm thực hiện được các chương trình đề thảo ra cho đất nước.
    Một Quốc Gia mà Chính Quyền thay phiên nhau đổ nhào như lá rụng mùa thu, qua các cuộc đảo chánh, chỉnh lý, lật đổ với “Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia”, “Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương”, “Ủy Ban Chỉnh Lý”,…như thời Việt Nam Cộng Hoà trong thập niên ’70, do các nhà lãnh đạo quân phiệt,  thiên vị, bè đảng và có tầm hiểu biết nông cạn, Đất Nước không bị tan nát, kiệt quệ và rơi vào tay Cộng Sản miền Bắc, thì cũng là chuyện lạ.
    B – Chính Quyền trong các tiến trình bất thường.
    1 – Khởi đầu bằng tuyển chọn.
    Những gì chúng tôi vừa đề cập ở trên là tiến trình được tuyển chọn và hoạt động bình thường của  Chính Quyền, được Hiến Pháp 1949 CHLBD xác định ở hai đoạn đầu tiên của điều 63.
    Nhưng hai đoạn kế tiếp của cùng một điều khoản cũng nói lên cho chúng ta  việc tuyển chọn xảy ra một đôi khi trong một vài trường hợp bất thường:
    -    “ Nếu người được đề cử không được tuyển chọn, Hạ Viện ( Bundestag) trong vòng mười bốn ngày sau lần bỏ phiếu, có thể chọn một Thủ Tướng liên bang khác với đa số thành viên của mình ”.
    -    “ Nếu Hạ Viện không tổ chức được một cuộc bỏ phiếu nào trong thời gian vừa kể, cần phải tức khắc tổ chức một cuộc tuyển cử mới, trong đó ai được phiếu nhiều nhứt sẽ được tuyển chọn. Nếu người được tuyển chọn hội đủ phiếu của đa số thành viên Hạ Viện (đa số tuyệt đối), Tổng Thống liên bang phải bổ nhiệm trong vòng bảy ngày kể từ ngày được bỏ phiếu. Nếu người được tuyển chọn không hội đủ đa số phiếu vừa kể ( tức là chỉ được đa số tương đối), trong vòng bảy ngày Tổng Thống liên bang phải bổ nhiệm ông hoặc Tổng Thống có thể giải tán Hạ Viện” (Điều 63, đoạn 3 và 4 Hiến Pháp 1949 CHLBD).  
    Đọc hai đoạn văn vừa kể của điều 63, chúng ta thấy rằng Hiến Pháp 1949 CHLBD  nhất quyết đòi cho bằng được Hạ Viện phải cung cấp cho đất nước một vị Thủ Tướng để thành lập Chính Phủ quản trị xứ sở.
    14+7= 21 ngày: 21 ngày sau khi Hạ Viện đã được dân chúng tín nhiệm bỏ phiếu tuyển chọn để góp phần điều hành đất nước, dân chúng có quyền kỳ vọng ở Hạ
    Viện phải có phương cách hành xử hiệu năng. 
    Hạ Viện không thể vì lý do phe phái, tư lợi, cải vả không thể đồng thuận nhau để có được đa số tuyệt đối ủng hộ, cung cấp cho đất nước một vị Thủ Tướng thành lập Chính Phủ để quản trị Quốc Gia.
    Dân chúng đã kiên nhẫn chờ đợi 14 ngày, sau khi nhân vật được Tổng Thống liên bang để cử bị Hạ Viện loại bỏ, Hạ Viện vẫn còn cải vả không ai đồng ý để tuyển chọn nỗi một vị Thủ Tướng Chính Phủ cho đất nước. 
    Thì đây là cơ hội cuối cùng, 7 ngày kế tiếp ít ra Hạ Viện cũng phải tỏ ra thiện chí bầu cho đất nước một vị Thủ Tướng mới.
    Và rồi, nếu chiếc phao cuối cùng cũng trở thành vô vọng: người được Hạ Viện tuyển cử cũng không có được đa số phiếu tuyệt đối ủng hộ để có khả năng cai trị đất nước, dân chúng hay nói cách khác ý muốn của dân chúng được phát biểu trong Hiến Pháp 1949 đâm ra ngao ngán, không còn tin tưởng ở Hạ Viện nữa, mà trao trọn quyền quyết định cho Tổng Thống liên bang:
    - “…trong vòng bảy ngày Tổng Thống liên bang phải bổ nhiệm ông hoặc Tổng Thống có thể giải tán Hạ Viện” (Điều 63, đoạn 4, id.).
    “ Cộng Hoà Liên Bang Đức là một Quốc Gia Liên Bang, Dân Chủ và Xã Hội” (Điều 20, id.).
    Nhưng Dân Chủ và Xã Hội không có nghĩa là Vô Chính Phủ. 
    Bởi lẽ một Quốc Gia Vô Chính Phủ có nghĩa là một Quốc Gia hỗn loạn.
    Hạ Viện không có khả năng cung cấp cho Quốc Gia một Thủ Tướng Chính Phủ để điều hành Quốc Gia, khiến cho Quốc Gia rơi vào hỗn loạn là Hạ Viện không chu toàn chức năng của mình được Quốc Gia giao phó, không còn xứng đáng tồn tại.
    Đó là lý do tại sao Hiến Pháp giao quyền cho Tổng Thống liên bang có thể giải tán Hạ Viện (Điều 63, đoạn 4, id.).
    Giải tán Hạ Viện, các vị soạn thảo Hiến Pháp 1949 CHLBD hy vọng cử tri đoàn sẽ ý thức đến việc xử dụng lá phiếu của mình một cách có trách nhiệm trong lần bầu cử tới, tạo được đa số đồng thuận trong Hạ Viện sẽ được bầu ra, giải quyết tình trạng nguy ngập và hổn độn cho đất nước. 
    Không có Chính Phủ quản trị, các đồ án thiết kế và phát triển đất nước không thể được đem ra thực thi, không ai có thể tạo được ấm no, thịnh vượng và an bình cho đất nước trong tình trạng cừa kể.
    2 – Lá phiếu bất tín nhiệm xây dựng.
    Những gì chúng ta bàn luận với nhau từ đầu bài viết đến đây là những gì có thể xảy ra trong tiến trình tự nhiên khởi đầu từ lúc Hạ Viện được bầu cử, đến việc tuyển chọn Thủ Tướng Chính Phủ, dựa trên các đoạn của điều 63 Hiến Pháp 1949 CHLBD.
    Nhưng Quốc Gia cũng là hình ảnh của một đại gia đình. Trong cuộc sống chung giữa những phần tử trong gia đình, thỉnh thoảng cảnh “ cơm không lành, canh không ngọt ” vẫn thường có thể xảy ra. 
    Lúc mới được bầu lên, các chính đảng trong Hạ Viện có thể dễ dàng thoả thuận, nhượng bộ nhau, tạo được đa số đồng thuận ủng hộ Thủ Tướng Chính Phủ.
    Nhưng rồi hoạt động chung nhau, nhiều vấn đề và ý kiến khác biệt có thể xảy ra.
    Do đó việc đồng ý hay bất đồng đối với một vài dự án của Chính Phủ là việc không thể tránh. 
    Là Hạ Viện của một Quốc Gia Dân Chủ, việc đồng ý hay không đồng ý với chính kiến của Thủ Tướng Chính Phủ là điều tự nhiên có thể xảy ra. 
    Nhưng Hiến Pháp 1949 không thể chấp nhận cho việc Hạ Viện xử dụng quyền “chuẩn y hay bát bỏ ” dự thảo luật của Thủ Tướng một cách vô trách nhiệm làm cho Chính Quyền bị tê liệt hay đất nước Vô Chính Phủ.
    Và đó là những gì Hiến Pháp 1949 CHLBD đã tiền liệu có thể xảy ra và chỉ có thể xảy ra tùy theo một số điều kiện được thiết định, vì lợi ích chung của đất nước:
    - “ Hạ Viện có thể tuyên bố bất tín nhiệm Thủ Tướng liên bang chỉ khi nào Hạ Viện tuyển chọn được một vị thay thê với đa số phiếu (đa số tuyệt đối) các thành viên Hạ Viện và yêu cầu Tổng Thống liên bang thu hồi chức vụ Thủ Tướng. Tổng Thống phải thoả mãn lời yêu cầu nầy và bổ nhiệm vị vừa được tuyển chọn” (Điều 67, Hiến Pháp 1949 CHLBD).
    Cách hành xử bất tín nhiệm  theo các điều kiện bắt buộc vừa kể của Hạ Viện đối với Thủ Tướng  được Hiến Pháp chỉ định,  được gọi là “ Lá Phiếu Bất Tín Nhiệm Xây Dựng ” (konstruktive Misstrauenvotum).
    Giới hạn được đặt ra do kinh nghiệm tiêu cực dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà Weimar. 
    Thời Cộng Hoà Weimar, hai chính đảng đối lập, đối lập với Chính Phủ và chống thể chế dân chủ Hiến Pháp Weimar đề xướng, đảng Đức Quốc Xả và đảng Cộng Sản, toa rập, cấu kết nhau làm cho phe thân Chính Phủ trở thành thiểu số, khiến Chính Phủ bị lật đổ ( do lá phiếu bất tín nhiệm trong Quốc Hội).
     Họ lật đổ Chính Phủ nhằm đả phá thể chế dân chủ hơn là bất đồng ý kiến về hoạt động của Chính Phủ.
    Hai chính đảng vừa kể, một cực tả, một cực hữu, không bao giờ muốn cộng tác nhau để tạo được đa số vững mạnh, ủng hộ cho Hành Pháp vững mạnh vì lợi ích Quốc Gia. 
    Hành động cấu kết của họ chỉ để đạp đổ, đả phá thể chế dân chủ.
    Làm cho Chính Quyền tê liệt để đả phá thể chế dân chủ của Hiến Pháp Weimar, mục đích chỉ có vậy.
    Trước kinh nghiệm tiêu cực đó, các vị soạn thảo Hiến Pháp 1949 tìm phương thể để củng cố cơ chế Quốc Gia, không những về phương diện được tư do hoạt động, mỗi cơ quan trong lãnh vực của mình, mà còn bảo đảm cho mỗi cơ chế hiến định được tồn tại vững mạnh trong suốt thời gian tại chức ( K. Stern, Das Staerecht der Bundesrepublik Deuschland, C.H. Beck, Muenchen 1972, vol I, 765). 
    Ha Viện có quyền biểu quyết bất tín nhiệm Thủ Tướng, bắt buộc Ông và Nội Các Chính Phủ phải từ chức (Điều 67, id.), nếu không chúng ta sẽ không còn ở trong thể chế Đại Nghị Chế nữa và có lẽ cũng không còn Dân Chủ nữa.
    Bởi lẽ, nếu không,  Thủ Tướng và Chính Phủ ông có toàn quyền hành xử quyền lực Quốc Gia tùy hỷ, không ai được động chạm, kiểm soát,cảnh cáo, truất phế.
    Nhưng Đại Nghị Chế hay Dân Chủ không có nghĩa là tự do đạp đổ, đảo chánh, phá hoại với “Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương”, “Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia”, “ Ủy Ban Chỉnh Lý ”…hành xử vô trách nhiệm, như thời VNCH thập niên ’70 để đưa đến tình trạng mất nước! 
    Đại Nghị Chế hay Dân Chủ là tự do phát biểu ý kiến bất đồng đối với những gì không lợi ích và hiệu năng hiện tại, bất tín nhiệm giới lãnh đạo đương quyền không có khả năng hay thiên vị, để đưa ra những đồ án, chương trình thực hiện tốt đẹp hơn trong tương lai và đưa ra những người lãnh đạo có khả năng hơn, tài ba và đạo đức hơn.
    Đó là ý nghĩa xây dựng của “ Lá phiếu bất tín nhiệm xây dựng ” ( konstruktive Misstrauenvotum) của điều 67 Hiến Pháp 1949 CHLBD chúng ta vừa trích dẫn ở trên.

    Về phương diện hiệu năng, đó là phương thức ít tốn công sức để có được một Chính Phủ mới, có đa số tuyệt đối dân biểu Hạ Viện ủng hộ để hoạt động:
    -    Chính Phủ bị truất phế, 
    -    Tổng Thống bắt đầu thăm do ý kiến các chính đảng trong Hạ Viện, 
    -    đề cử cho Hạ Viện, Hạ Viện bỏ phiếu tuyển chọn, 
    -    bổ nhiệm Thủ Tướng và Nội Các mới, 
    -    trình diện Tân Chính Phủ trước Hạ Viện để được tín nhiệm.
    Tất cả những thủ tục đó, Hiến Pháp 1949 CHLBD chỉ gồm tóm vào việc quy trách cho Hạ Viện 
    “…chỉ khi nào tuyển chọn được một vị thay thế với đa số phiếu các thành viên của hạ Viện”. 
    Hạ Viện không thể chỉ biết hành động đả phá, lật đổ như đảng Đức Quốc Xã và đảng Cộng Sản thời Cộng Hoà Weimar, mà còn phải nghĩ đến các hoạt động của lợi ích của Hành Pháp cho đất nước. 
    Hiến Pháp 1949 bắt buộc Hạ Viện phải tạo được đa số tuyệt đối đồng thuận giữa các nghị sĩ, trước khi tạo ra cuộc khủng hoảng đối với Thủ Tướng Chính Phủ đương nhiệm.
    Nếu không Hạ Viện sẽ bị trừng phạt ( K. Stern, op. cit., 780).
    3 - Giải tán Hạ Viện trước định kỳ. 
    Như tất cả các Hiến Pháp các Quốc Gia dân chủ tự do, Hiến Pháp 1949 CHLBD bảo đảm ước vọng  và nhu cầu của người dân luôn luôn được các đại diện dân cử nói lên trong Quốc Hội. 
    Do đó, nhiệm kỳ thường nhiệm của Hạ Viện được Hiến Pháp 1949 CHLBD quy định là 4 năm (Điều 39, Hiến Pháp 1949 CHLBD), ngoại trừ trường hợp bất khả kháng Hạ Viện bị giải nhiệm trước định kỳ.
    Và cũng theo truyền thống thời Trung Cỗ, ở Anh Quốc cũng như ở các Quốc Gia Âu Châu lục địa, quyền giải tán Quốc Hội trước định kỳ được các Hiến Pháp giao cho Tổng Thống, Vị Nguyên Thủ Quốc Gia ( M. Volpi, Lo scioglimento anticipato del Parlamento e la classificazione dei regimi contemporanei, Maggioni, Rimini, 1983, 240).
    Việc giải tán Quốc Hội trước định kỳ không phải là hành động “ trả thù ” đối với Quốc Hội ương ngạnh cho bằng vì nhu cầu thiết yếu và đáp ứng một cách thiết thực hết sức có thể ý muốn của dân chúng, ý muốn của Quốc Hội và nhu cầu hoạt động của Chính Phủ.
    Trên thực tế, mục đích giải tán Quốc Hội trước định kỳ là tạo điều kiện để bầu Hạ Viện mới, với hy vọng rằng Hạ Viện sẽ quy tựu được đa số nghị sĩ ủng hộ một Chính Phủ vững mạnh hơn trong tương lai, được yên ổn hơn trong việc quản trị đất nước.
    Nhưng như ở trên đã nói, qua các kinh nghiệm tiêu cực trong quá khứ do đảng Đức Quốc Xã và đảng Cộng Sản có ý đồ đạp đổ thể chế Dân Chủ của Hiến Pháp Weimar hơn là xây dựng,các lần giải tán Quốc Hội trước định kỳ trong các năm 1930-1932 (có đến 2 lần chỉ nội trong năm 1932) đưa đến kết quả trái ngược: cứ mỗi lần giải tán và bầu Quốc Hội mới là mỗi lần số phiếu của hai phe thái cực (Đức quốc Xã và Cộng Sản) gia tăng. Quốc Hội không hội dủ túc số đa số tuyệt đối để ủng hộ Chính Phủ có khả năng cai trị và đất nưóc trở thành Vô Chính Phủ.
    Để tránh tình trạng tệ hại đó Hiến Pháp 1949 CHLBD theo gương Hiến Pháp 1946 Pháp Quốc định chế quyền giải tán Quốc Hội trước định kỳ theo một tiến trình rất chặt chẽ.
    Việc giải tán Hạ Viện trước định kỳ chỉ có thể xảy ra trong hai trường hợp:
    -    Hạ Viện không có khả năng tuyển chọn Tân Thủ Tướng với đa số tuyệt đối các thành viên (trường hợp được hai đoạn 3 và 4 của điều 63 được đề cập ở trên)
    -    Hạ Viện bỏ phiếu bất tín nhiệm Thủ Tướng Chính Phủ mà không tuyển chọn nỗi một Thủ Tướng khác với đa số tuyệt đối các thành viên ( ngược lại với điều kiện “ lá phiếu bất tín nhiệm xây dựng” ):
    “ Trường hợp có thể xảy ra khi Thủ Tướng liên bang yêu cầu Hạ Viện bày tỏ lòng tín nhiệm đối với ông không được đa số thành viên Hạ Viện chấp thuận, trong vòng 21 ngày theo lời yêu cầu của Thủ Tướng, Tổng Thống có thể giải tán  Hạ Viện. Quyền nầy sẽ không còn hiệu lực vừa khi Hạ Viện tuyển chọn một Thủ Tướng khác với đa số thành viên của mình” (Điều 68, đoạn 1 Hiến Pháp 1949 CHLBD).
    Hai trường hợp vừa được nêu ra đưa đến việc giải tán Hạ Viện trước định kỳ, Hạ Viện không có khả năng tuyển chọn Tân Thủ Tướng hay Hạ Viện bất tín nhiệm Thủ Tướng đương nhiệm mà không có khả năng tuyển chọn một Thủ Tướng khác, đều có cùng một ý nghĩa. Một Quốc Hội không chu toàn nhiệm vụ hiến định của mình, tuyển chọn và hậu thuẩn vững mạnh với đa số tuyệt đối cho Chính Phủ để điều hành Quốc Gia trong Đại Nghị Chế, mà một Quốc Hội không có lý do tồn tại.
    Quốc Hội không thể tại vị để ngăn cản lâu dài, không cho Quốc Gia có một Chính Phủ để điều khiển và hoạt động, thoả mãn nhu cầu và ước vọng của dân chúng.
    Trái lại Tổng Thống không còn có lý do chính đáng giải tán Quốc Hội, nếu Quốc Hội có thể quy tựu được đa số thành viên tuyển chọn và làm hậu thuẩn cho Chính
    Phủ vững mạnh hoạt động cho dnâ chúng.
    Trong trường hợp vừa kể, Quốc Hội có quyền hiến định tồn tại đến mãn nhiệm, không ai có quyền giải tán dù là Thủ Tướng hay Tổng Thống cũng vậy.
    4 –  Giải pháp cuối cùng trước khi giải tán Hạ Viện trước định kỳ.  
    Giải tán Hạ Viện trước định kỳ, giao quyền quyết định lại cho cử tri đoàn thiết định đường lối chính trị và phương thức điều hành Quốc Gia qua việc bầu cử lại Hạ Viện mới, là giải pháp cuối cùng, trì trệ và tốn nhiều công sức, bất đắc dĩ phải làm.
    Trước khi đi đến một quyết định bất khả kháng như vừa kể để giải quyết các vấn đề của Quốc Gia, Hiến Pháp 1949 CHLBD tiên liệu một giải pháp ôn hòa hơn, ít tốn công sức hơn, để giải quyết những vấn đề bế tắc giữa lập pháp và hành pháp: “ tình trạng lập pháp khẩn trương ”.
    Các điều kiện để đi đến giải pháp vừa kể được điều 81 xác định:
    -    “ Nếu trong trường hợp được điều 68 tiên liệu Hạ Viện không bị giải tán, Tổng Thống liên bang, theo lời yêu cầu của Chính Phủ , cùng với sự đồng thuận của Thượng Viện ( Bundesrat), có thể tuyên bố “ tình trạng lập pháp khẩn trương”, đối với dự thảo luật mà Hạ Viện bác bỏ, mặc dầu Chính Phủ tuyên bố là khẩn cấp. Cũng vậy, đối với một dự án luật bị bác bỏ, mặc dầu Thủ Tướng liên bang đặt liên hệ giữa dự án và tính cách khả dĩ áp dụng lý lẽ  của điều 68.
    -    “ Nếu Hạ Viện lại bác bỏ dự án một lần nữa, sau khi “ tình trạng lập pháp khẩn trương” được tuyên bố, hoặc được Hạ Viện biểu quyết chấp thuận theo văn mạch mà Chính Phủ coi là không thể chấp nhận được, dự án luật sẽ được coi là luật đã được biểu quyết tán đồng, nếu được Thượng Viện đồng thuận. Điều nầy cũng được coi là có giá trị đối với một dự án luật không được Hạ Viện biểu quyết chấp thuận, sau bốn tuần lễ, kể từ ngày được đệ trình”.
    -    “ Trong thời gian tại chức của một Thủ Tướng, suốt khoảng thời gian sáu tháng kể từ ngày “ tình trạng lập pháp khẩn trương ” được tuyên bố, bất cứ dự án luật nào bị Hạ Viện bác bỏ, đều sẽ được coi là đồng thuận chuẩn y, theo tinh thần của đoạn 1 và 2. Hết sáu tháng vừa kể, trong nhiệm kỳ của một Thủ Tướng, không thể chấp nhận một lần công bố thứ hai “ tình trạng lập pháp khẩn trương” thêm nữa” (Điều 81, đoạn 1, 2 và 3 Hiến Pháp 1949 CHLBD).
    Qua những gì đã trình bày, chúng ta thấy rằng Chính Quyền Cộng Hòa Liên Bang Đức là một cơ chế được các vị soạn thảo Hiến Pháp 1949 CHLBD nghĩ ra 
    -    để được bảo đảm vững chắc, hoạt động đều hòa, hiệu năng, không thiên vị,
    -    bị kiểm soát không thể hành xử quyền lực Quốc Gia độc tài , 
    -    mà cũng không bị các thành phần vô trách nhiệm cản trở, phá hoại. 
    a) Là cơ quan Hành Pháp trong Đại Nghị Chế, Thủ Tướng Chính Phủ phải được Hạ Viện, cơ quan dân cử tuyển chọn với số phiếu đa số tuyệt đối, theo lời đề nghị và sau đó được bổ nhiệm của Tổng Thống liên bang, Vị nguyên Thủ Quốc Gia ( Điều 63, Hiến Pháp 1949 CHLBD).
    Một bước nữa chứng tỏ Chính Quyền CHLBD tùy thuộc vào Hạ Viện, trong thời gian hành xử quyền lực Quốc Gia được trao phó, đó là Chính Quyền phải tuyên thệ trước Hạ Viện, trung thành với Hiến Pháp trước khi nhậm chức:
    -    “ Thủ Tướng và các Bộ Trưởng liên bang tuyên thệ trước Hạ Viện theo những gì điều 56 ấn định, khi nhận lãnh chức vụ ” (Điều 64, đoạn 2, id.).
    Và rồi đang lúc hành quyền, Chính Quyền luôn luôn bị đặt dưới sự kiểm soát của Hạ Viện và khi hội đủ một số dữ kiện và điều kiện, Hạ Viện có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm Thủ Tướng, bắt buộc Chính Quyền phải từ chức (Điều 67, đoạn 1, id.).
    Những gì vừa kể cho thấy Chính Quyền Cộng Hoà Liên Bang Đức là một Chính Quyền trong thể chế Dân Chủ, không dễ gì tự tung tự tác, xử dụng quyền lực Quốc Gia một cách phi pháp, độc tài, độc tôn, toàn trị, phe cánh, đảng trị tùy hỷ.
    b) Trong Đại Nghị Chế, Chính Quyền hành xử quyền lực tùy thuộc vào sự đồng thuận của Quốc Hội, cơ chế dân cử để bảo đảm và bênh vực địa vị và các quyền bất khả xâm phạm của người dân.
    Nhưng Quốc Hội không phải là môi trường kiếm hiệp gian hồ, mạnh ai nấy đánh trống gỏ mỏ, tự do đạp đổ mà không nghĩ gì đến lợi ích chung của đất nước.
    Bởi đó Hiến Pháp 1949 CHLBD giới hạn tự do tranh luận, tự do chia rẻ, đạp đổ, bất tín nhiệm của Hạ Viện vào một số điều kiện được xác định: “ lá phiếu bất tín nhiệm xây dựng”” là một bảo chứng (Điều 67, đoạn 1, id.), nếu Hạ Viện không muốn bị Tổng Thống liên bang cho về hưu trước định kỳ (Điều 63, đoạn 4 và điều 68 đoạn 1, id.).   
    c) Song song với nguy cơ bải nhiệm Hạ Viện trước định kỳ, Hiến Pháp 1949 CHLBD cũng đưa ra một giải pháp khác để bảo đảm cho Chính Quyền được yên ổn thực hiện các chương trình điều khiển đất nước của mình.
    Đó là việc Thủ tướng có quyền yêu cầu Tổng Thống, cùng với sự đồng thuận của Thượng Viện, tuyên bố “ tình trạng lập pháp khẩn trương ” trong thời gian sáu tháng (Điều 81, đoạn 1, 2 và 3 Hiến Pháp 1949 CHLBD).
    Và như chúng ta biết Thượng Viện CHLBD là một cơ chế gồm có các thành viên là thành phần của các Chính Quyền các Tiểu Bang:
    -    “ Thượng Viện được cấu tạo bằng các thành viên của Chính Quyền các Tiểu Bang, do các Chính Quyền đó bổ nhiệm hay thu hồi chức vụ…”( Điều 51, đoạn 1 Hiến Pháp 1949 CHLBD).
    Một cơ chế với các thành viên có xuất xứ như vậy, chắc chắn không thể nào toa rập một cách dễ dàng với Hạ Viện liên bang.
    Và đó là một bảo chứng cho Chính Quyền liên bang khỏi bị  áp lực của Hạ Viện.
    Chính Quyền có được Thượng Viện, một cơ chế khác có quyền lực cân bằng, khỏi phải luôn luôn vâng dạ đối với Hạ Viện, kể cả trước những đòi hỏi bất chính đạp đổ, phá hoại của thời Cộng Hoà Weimar.
    Một lần nữa, dù là cơ quan dân cử, tiếng nói chính thức của dân chúng trong Cộng Đồng Quốc Gia để xác định chính hướng cho đất nước, Hạ Viện không thể hành xử quyền lực Quốc Gia được giao phó một cách vô trách nhiệm, để Quốc Gia rơi vào tình trạng Chính Phủ bị tê liệt hay  Vô Chính Phủ, bất trị, với những thiệt hại khó lường được.
    d ) Và sau cùng nhiều trường hợp có thể xãy ra khi Chính Quyền cùng toa rập với đa số trong Hạ Viện để cùng “ soạn thảo, chuẩn y hay bác bỏ ” và hành xử luật pháp một cách sai trái tùy hỷ. 
    Đó là chuyện thường tình,  xảy ra ở các Quốc Gia có một hay hai chính đảng nặng ký, nhứt là Quốc Gia độc đảng như các Quốc Gia Cộng Sản, Cộng Sản Việt Nam chẳng hạn!
    Để tránh tình trạng toa rập hành xử quyền bính độc tài như vừa kể có thể xảy ra, Cộng Hoà Liên Bang Đức là một Quốc Gia liên bang, có được lợi thế.
    Có thể thành phần  đa số đương quyền  đang chiếm đa số ở Hạ Viện và Chính Quyền liên bang.
    Nhưng chưa hẳn là họ có thể thực hiện được ở các Tiểu bang. Một hay nhiều Chính Quyền của các Tiểu bang có thể do các thành phần đối lập nắm giữ. 
    Và do đó, Thượng Viện có thể là một cơ chế được thành lập do đa số thành phần đối lập của  Chính Quyền các Tiểu bang ,đối lập lại giới đương quyền Liên Bang.
    Và như chúng ta biết, một dự án luật, sau khi được Hạ Viện chuẩn y, dự án luật cũng phải được sự đồng thuận của Thượng Viện:
    - “ Luật pháp liên bang được Hạ Viện ban hành. Sau khi đạo luật được chuẩn y, vị Chủ Tịch Hạ Viện phải lập tức chuyển đến Thượng Viện ” ( Điều 77 đoạn 1, Hiến Pháp 1949 CHLBD) . 
    Trong tiến trình thông thường để hình thành luật pháp, một dự án luật được đệ trình Thượng Viện, Viện Quốc Hội đại diện của  Chính Quyền các Tiểu Bang  như vừa nói, sẽ chuyển đến Chính Quyền các Tiểu Bang để hỏi ý kiến.
    Nếu Chính Quyền các Tiểu Bang đa số tỏ ý bất đồng, Thượng Viện không có cách gì “chuẩn  y ” dự án luật đang bàn.  
    Điều đó cho thấy Chính Quyền liên bang không thể đưa ra Nghị Định, Pháp Lệnh, Dự Án Luật tự mình  hay ỷ thế “ cả vú lấp miệng em”, dựa vào đa số đồng thuận, toa rập ở Hạ Viện “ ban hành ” đạo luật nào và áp dụng cách nào tùy hỷ, nếu không muốn bị Viện Bảo Hiến phán quyết là hành vi bất chính, vi hiến và bị bắt buộc phải từ chức:
    -    “ Viện Bảo Hiến liên bang sẽ quyết định trong trường hợp bất đồng ý kiến hay nghi vấn về tính cách thích hợp thuyết lý hay thực hữu giữa luật pháp Liên Bang hay luật pháp các Tiểu Bang đối với Hiến Pháp nầy, nếu có lời yêu cầu của Chính Quyền liên bang, Chính Quyền của một Tiểu Bang hay 1/3  thành viên Hạ Viện” (Điều 93, đoạn 2, id.).
    “ Chính Quyền của một Tiểu Bang hay 1 /3 thành viên Hạ Viện ” có thể thuộc thành phần đối lập, yêu cầu Viện Bảo Hiến can thiệp chống lại cách cấu kết hành xử bất chính quyền lực Quốc Gia giữa Chính Quyền và Hạ Viện liên bang.
    Điều đó không có gì khó khăn để thực hiện. 
    Thượng Viện, Chính Quyền các Tiểu bang, thành phần thiểu số đối lập và Viện Bảo Hiến là những yếu tố then chốt để bảo đảm thể chế Nhân Bản và Dân Chủ của Hiến Pháp 1949 CHLBD. 
    Tiếng nói của Thượng Viện là tiếng nói của Chính Quyền và dân chúng địa phương, có thể cũng là tiếng nói của các lực lượng chính trị đối lập, nhằm “ cắt tỉa, hảm thắng” các cách hành xử quá lố, tùy hỷ của Chính Quyền và Hạ Viện liên bang có thể cấu kết với nhau, độc tài, đảng trị, bè phái và hoạt động chểnh mảng, không hiệu năng.
    Tiếng nói của Thượng Viện, của các Tiểu bang hay của Cộng Đồng Địa Phương không phải chỉ là tiếng nói của dân chúng địa phương liên quan đến các vấn đề địa phương, mà là tiếng nói của dân chúng trên một phần đất của Quốc Gia, có thể liên quan cả đến nhu cầu và ước vọng chung của đất nước.
    Do đó, không có cách gì Hiến Pháp 1949 CHLBD cho phép Hạ Viện và Chính Quyền liên bang cấu kết nhau “ soạn thảo, chuẩn y hay bát bỏ ” và hành xử luật pháp Quốc Gia mà không đếm xỉa gì đến tiếng nói của Thượng Viện và Chính Phủ các Tiểu bang ( Gherig, Parlament-Regierung – Opposition: Dualismus als Voraussetzung fuer eine parlamentarissche Kontrolle der Regierung, Muenchen, 1969, 189s). 
    Nói tóm lại, Chính Quyền Cộng Hoà Liên Bang Đức là một cơ chế được nghĩ ra để bảo đảm cho guồng máy Quốc Gia được vững mạnh, hoạt động điều hòa, không thể hành xử quyền bính độc tài và loại trừ những xáo trộn, phá hoại bất ổn của các phần tử muốn đạp đổ, phá hoại thể chế Nhân Bản và Dân Chủ của dân tộc Đức.
    Muốn có được Nhân Bản và Dân Chủ, người Đức đã phải  đắn đo suy nghĩ với nhiều bộ óc lổi lạc , xăng tay áo và hành động.
    Nhân Bản và Dân Chủ người Pháp đã phải trả giá bằng Cách Mạng 1789, người Đức đã phải bảo đảm bằng trí óc và công sức trong Hiến Pháp 1949.
    Không ai đem tặng nhưng không cho họ. 
    Chính Quyền Cộng Hoà Liên Bang Đức, một cơ chế hiệu năng, vững mạnh và tôn trọng Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ,  một bài học và mơ ước cho đất nước Việt Nam.
    http://www.tinparis.net/
     
    Xem trang web chính thức tại Tinhthankhaiminh.org