Trong các sắc dân trên thế giới, có lẽ
hiếm có dân tộc nào chịu số phận bị đọa đày, miệt thị và khổ ải như dân tộc Do
Thái với hai lần thiên di, lần thứ nhất bắt đầu vào năm 722 và lần thứ hai bắt
đầu vào năm 135 Trước công nguyên (BCE). Trải qua 21 thế kỷ lưu vong, tứ tán khắp
nơi và đến năm 1948 người Do Thái mới thực hiện được ước mơ “Phục quốc”
(Zionism), vốn được một nhà báo Do Thái gốc Áo-Hung khởi xướng tại châu Âu từ
năm 1896. Trong cùng cảnh ngộ tương tự, nhiều sắc tộc, dân tộc khác trong cùng
khu vực Lưỡng Hà đã bị tiêu vong hoặc đồng hóa từ lâu. Nhưng ngược lại, mặc dù
chịu những đau khổ, mất mát (như nạn diệt chủng Holocaust của Đức Quốc xã rồi nạn
lưu đày, trại tập trung) nhưng người Do Thái không chỉ duy trì được tôn giáo,
văn hóa, nòi giống, bản sắc của mình, mà có những ảnh hưởng vượt trội trong cả
khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, đóng góp vào sự tiến bộ chung của nhân loại.